Chủ Nhật, 6 tháng 6, 2010

Áp dụng ký hiệu tác giả cho sách trong kho mở ở Việt Nam (

Công tác Tổ chức, lưu trữ và Bảo quản vốn tài liệu
Áp dụng ký hiệu tác giả cho sách trong kho mở ở Việt Nam (24/04/2010)
Vũ Văn Sơn - Trung tâm Thông tin Khoa học & Công nghệ Quốc gia

Tóm tắt: Nêu rõ sự khác nhau giữa kho mở và kho đóng. Nêu thực trạng việc sử dụng các bảng ký hiệu tác giả vào việc tổ chức kho mở ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam. Giới thiệu chi tiết về Bảng Cutter, một bảng ký hiệu tác giả hiện đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới và cách sử dụng bảng này vào kho mở của Thư viện KHKT Trung ương thuộc Trung tâm Thông tin Tư liệu KHCN Quốc gia.

Từ lâu, các thư viện Việt Nam đã quen với 2 hình thức tổ chức kho: Kho đóng (chỉ cán bộ thư viện mới vào được) và kho mở (tạo điều kiện cho người đọc vào kho, tiếp cận, lựa chọn sách tại giá). Đa phần các thư viện miền Bắc chỉ tổ chức kho mở cho báo, tạp chí mới (3-5 năm cuối); cho sách mới (dưới hình thức phòng đọc/triển lãm sách mới hàng tuần hay nửa tháng), và cho tài liệu tra cứu (sách kinh điển, từ điển, bách khoa thư, cẩm nang, sổ tay, bảng tính, danh bạ, thư mục, tạp chí tóm tắt,...). Trong khi đó, nhiều thư viện ở miền Nam, nhất là các thư viện có từ trước ngày giải phóng, và các thư viện của các tổ chức nước ngoài như FAO, UNDP,...đã tổ chức kho mở hầu như cho toàn bộ kho sách. Mới đây, việc tổ chức kho mở trên qui mô rộng hơn đã được phát triển ở nhiều thư viện và cơ quan thông tin trong cả nước: ở Trung tâm Thông tin- Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội, các đại học thuộc Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Thư viện KHKTTU thuộc Trung tâm Thông tin-Tư liệu KHCNQG, và nhiều thư viện khác.

Trong kho đóng, việc phân kho, sắp xếp sách trước hết dựa theo ngôn ngữ, sau đó theo khổ cỡ (chiều cao gáy sách) và cuối cùng là theo thứ tự sách nhập về thư viện. Tổ chức theo hình thức kho đóng có ưu điểm là quản lý và bảo vệ sách (chống thất thoát) được dễ dàng. Trật tự sách trong kho không bị xáo trộn. Tiết kiệm được diện tích giá kệ (do sách cùng cỡ xếp cạnh nhau thành từng đợt; không phải dự trữ chỗ cho các sách cùng chủ đề sẽ tiếp tục bổ sung vào kho). Tuy nhiên, ít thuận tiện cho người đọc, vì họ phải viết phiếu yêu cầu (dựa trên những thông tin hết sức vắn gọn trong tờ phiếu mục lục hay biểu ghi thư mục), chờ đợi để nhân viên vào kho lấy sách, mà không có điều kiện xem lướt qua nội dung sách để chọn lọc kỹ càng trước khi quyết định mượn. Hiện nay, ở các nước Âu Mỹ, người ta vẫn duy trì hình thức kho đóng để bảo quản các sách quí hiếm và có tần số sử dụng thấp.

Ngược lại, hình thức tổ chức kho mở có ưu điểm tạo điều kiện thuận lợi cho bạn đọc chọn lựa sách, đọc ngay tại chỗ, không mất thời gian viết phiếu yêu cầu và chờ đợi để có sách, rất thích hợp với phương châm tổ chức và hoạt động của thư viện ngày nay là hướng về người sử dụng (user oriented) nhưng lại có những nhược điểm mà vốn là những ưu điểm của kho đóng.Trong kho mở, việc sắp xếp sách dựa theo nội dung chủ đề căn cứ vào ký hiệu xếp giá (call number), được tạo ra bằng cách kết hợp ký hiệu phân loại (rút ra từ Khung phân loại mà thư viện đang sử dụng) kết hợp với ký hiệu tác giả hay còn gọi là số Cutter.

Theo định nghĩa trong Đại từ điển của nhà Random (Random House Unabridged Dictionary) xuất bản năm 1993, số Cutter là một mã kết hợp các số thập phân với các chữ cái lấy từ họ tác giả, được sử dụng trong một hệ thống xếp theo chữ cái.

Số Cutter (hay còn gọi là số sách: book number) mang tên nhà thư viện học lỗi lạc người Mỹ Charles Ammi Cutter, một trong những người sáng lập ra Hội thư viện Mỹ (ALA). Ngoài việc tạo ra các bảng ký hiệu tác giả, ông còn biên soạn Khung phân loại mở rộng Cutter (Cutter Expansive Classification) có ảnh hưởng lớn đối với Khung phân loại của Thư viện Quốc hội Mỹ (LCC) hiện nay. Charles Ammi Cutter biên soạn Bảng Cutter 2 chữ số (Cutter Two-figure Author Table) vào những năm cuối của thế kỷ 19 với mục đích tạo ra một phương pháp dễ sử dụng để sắp xếp sách theo tác giả trong phạm vi một mục (lớp) phân loại.

Trong những năm 60 của thế kỷ 20, Bà Kate E. Sanborn đã biên soạn lại Bảng Cutter 2 chữ số và phát triển thành Bảng Cutter 3 chữ số (gọi là Cutter –Sanborn Three-figure Author Table); được ông P.K.Swanson (Thư viện Forbes, Northampton, Massachusetts) và bà E.M.Swift (biên tập viên Nhà xuất bản H.R.Huntting Company) biên tập, hiệu đính và chỉnh lý. Bảng in bằng phông chữ mới. Các dãy số được sắp xếp liên tục theo từng chữ cái riêng biệt, mỗi cột chữ cái tương ứng với một cột số, thay vì hai cột chữ cái họ tên tác giả sử dụng chung một cột số như cách trình bày trong bảng Cutter 2 chữ số. Cũng trong thời gian này, do không tán đồng với cách phát triển của K.E. Sanborn (không bám sát vào cấu trúc của Bảng Cutter 2 chữ số), bản thân tác giả Cutter đã chi tiết hoá Bảng Cutter 2 chữ số thành Bảng Cutter 3 chữ số (Cutter Three-figure Author Table). Đặc điểm của bảng này là trong một số trường hợp, số Cutter có thể bắt đầu bằng 2 chữ cái (trường hợp tên họ tác giả bắt đầu bằng 2 nguyên âm, hoặc phụ âm kép Sc, hoặc thậm chí bắt đầu bằng 3 chữ cái trong trường hợp tên họ tác giả bắt đầu bằng Sch). Sau này, Thư viện Quốc hội Mỹ cũng tạo ra một phương pháp định ký hiệu tác giả riêng, dựa trên nguyên tắc ghép chữ cái đầu tên họ tác giả lần lượt với các số (từ 2 đến 9) theo qui định, tương ứng với từng chữ cái kế tiếp trong tên họ (thay vì tra trực tiếp vào một bảng có sẵn như các bảng Cutter 2 và 3 chữ số).

ở Liên Xô cũ và Nga hiện nay, các loại hình thư viện đều sử dụng bảng ký hiệu tác giả 2 chữ số, hoặc 3 chữ số, do L.B. Khavkina biên soạn dựa trên nguyên tắc Cutter và Cung sách toàn Liên bang xuất bản để sắp xếp nhanh chóng, thống nhất và chính xác sách trong kho mở. Thư viện khoa học kỹ thuật TU đã sử dụng bảng này (lần xuất bản thứ 5 năm 1961 có kèm theo Bảng 2 chữ số dùng cho các ngôn ngữ khác) để định ký hiệu tác giả và sắp xếp tài liệu bằng tiếng Nga và tiếng nước ngoài. Hiện nay, căn cứ vào tình hình sách latinh nhập vào nhiều hơn sách Nga, Thư viện đã sử dụng bảng Cutter-Sanborn thay cho bảng Khavkina.

Kể từ lần in đầu tiên vào những năm 90 của thế kỷ 19, các bảng Cutter đã được hàng ngàn thư viện trên thế giới thông qua và sử dụng. Trong số các phương pháp định ký hiệu tác giả, phương pháp sử dụng Bảng Cutter-Sanborn được phổ biến hơn cả, vì nó xuất hiện đầu tiên trong số các bảng 3 chữ số và tính chất sử dụng tương đối đơn giản của nó (Số Cutter bao giờ cũng chỉ sử dụng 1 chữ cái đầu; đa số các vần chữ cái là một hoặc hai âm tiết,... ) . Tuy nhiên, những thư viện mua phiếu in hoặc nhập biểu ghi của Thư viện Quốc hội Mỹ có xu hướng sử dụng phương pháp định ký hiệu tác giả của Thư viện này để tạo ký hiệu xếp giá kết hợp với ký hiệu phân loại LCC (Library of Congress Classification). Bảng Cutter của Thư viện Quốc hội Mỹ, đúng ra là một tập hợp các chỉ dẫn cách tạo lập một số Cutter theo kiểu của Thư viện này. Sau đây, là Cấu trúc các bảng tác giả đã giới thiệu ở trên [3,7].

Tên riêng "Cutter" hiện nay đã được sử dụng như một loại từ chung: danh từ kép "Cutter number" với nghĩa là "ký hiệu tác giả", hoặc như một động từ, "to cutter", hay một danh động từ, "cuttering", có nghĩa là định ký hiệu tác giả (theo nguyên tắc Cutter).

Số Cutter được tạo ra bằng cách kết hợp một hoặc nhiều chữ cái đầu tiên của họ tác giả với các số lấy từ Bảng Cutter được thiết kế sao cho có thể sắp xếp họ tên người theo trật tự vần chữ cái:

Thí dụ: R648 (Roberts) R649 (Robertson) R658 (Robinson)

(Theo bảng Cutter-Sanborn)

Số Cutter giúp tạo ra một hình thức họ tên tác giả ngắn gọn hơn, tạo điều kiện sắp xếp sách trên giá trong một mục phân loại hay chủ đề theo họ tên tác giả dễ dàng, chính xác. Kết hợp với ký hiệu phân loại, số Cutter giúp hình thành ký hiệu xếp giá (call number) của một cuốn sách; từ đó có thể xác định vị trí của sách trong kho mở. Nhờ ký hiệu ngắn gọn, tạo điều kiện làm các thủ tục xuất sách cho mượn và trả lại sách về đúng vị trí trên giá nhanh chóng.

Độ dài của số Cutter thay đổi tuỳ theo từng hoàn cảnh. Với một kho sách nhỏ, số sách trong mỗi mục phân loại ít, thì có khi số Cutter chỉ cần một chữ cái kết hợp với 1 số thập phân là đủ để phân biệt các cuốn sách của các tác giả khác nhau. Nhưng nếu thư viện lớn, sách nhập về nhiều, thì phải chi tiết hoá số Cutter tới 2, 3 số thập phân. Mặc dầu, thay đổi số Cutter là điều khó tránh, nhưng phải hết sức hạn chế vì việc này đòi hỏi phải cập nhật, sửa đổi biểu ghi thư mục và thay thế nhãn gáy sách, mà số Cutter là một yếu tố quan trọng ghi trên đó. Do đó lý tưởng là có một số Cutter đơn trị, nhưng trên thực tế, đối với một hệ thống cục bộ, người ta vẫn có thể chấp nhận hiện tượng có ký hiệu xếp giá trùng lặp chút ít và thứ tự không chính xác ở hai, ba cuốn sách liền kề nhau. Điều này không được coi là nghiêm trọng vì vẫn có thể tìm được cuốn sách trên giá [6 ].

Việc xây dựng bảng và định số Cutter được tiến hành theo những nguyên tắc chính sau đây:

Kết hợp giữa chữ cái và số của họ tên tác giả;

Xây dựng và mở rộng theo hệ số thập phân 1-9, 11-99, 111-999;

Bám sát qui tắc biên mục: Căn cứ vào tiêu đề chính (main entry) của mô tả thư mục. Nghĩa là sách có 3 tác giả trở xuống, định số Cutter theo họ tên tác giả thứ nhất. Sách có từ 4 tác giả trở lên và sách không nêu tên tác giả (tác phẩm khuyết danh), định số Cutter theo từ đầu tiên của nhan đề;

Tránh dùng số 0 vì dễ lầm với chữ cái O đứng đầu số Cutter và tránh dùng chữ l trong dấu hiệu tác phẩm vì dễ lầm với số 1 trong số Cutter;

Chi tiết hoá số Cutter đến mức có thể cá biệt hoá từng cuốn sách;

Đối với sách dịch, lập số Cutter theo nguyên tác (nếu có dữ liệu). Sau đó, bổ sung một chữ cái viết hoa theo ngôn ngữ bản dịch. Thí dụ V (bản dịch tiếng Việt), E (bản dịch tiếng Anh), F (bản dịch tiếng Pháp), R (bản dịch tiếng Nga);

- Tuỳ theo quá trình sách nhập về, có thể hiệu chỉnh số Cutter để đảm bảo tiêu đề thống nhất và cá biệt hoá ký hiệu xếp giá của từng cuốn sách.

Phát triển số Cutter cho sách Việt

Tiếng Việt có một bảng chữ cái riêng (mặc dầu về cơ bản dựa trên vần chữ cái latinh) với hệ thống âm luật và dấu biến thanh điệu điển hình, cho nên một số thư viện Việt Nam trong hàng chục năm qua đã có nỗ lực phát triển các bảng Cutter của nước ngoài hoặc biên soạn mới các bảng Cutter dùng riêng cho sách Việt.

Thư viện Quốc gia Sài gòn (nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh) đã in lại, dịch lời hướng dẫn sử dụng, phát triển và cải biên bảng Cutter-Sanborn trong các vần N, Q và X (thêm trang 71). Sau này, Thư viện Khoa học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh trên cơ sở áp dụng bảng này đã viết lại lời hướng dẫn, giới thiệu. Đặc điểm của việc áp dụng bảng tác giả ở Thành phố Hồ Chí Minh là sử dụng 1 bảng chung cho các ngôn ngữ khác nhau (tiếng Nga phải latinh hoá trước khi áp dụng), tạo điều kiện xếp các tài liệu Việt trong từng mục phân loại của kho mở theo trật tự thuận họ - tên tác giả (cách sắp xếp đã được đa số các thư viện lớn ở Việt Nam chấp thuận); số Cutter vừa được lập cho họ, vừa được lập cho tên riêng (2 số Cutter), do đó tuyệt đối tránh được hiện tượng trùng lặp số Cutter định cho họ tên các tác giả khác nhau. Tuy nhiên, việc Việt hoá họ tên tác giả trong bảng Cutter-Sanborn, mới chỉ làm được ở 3 vần N, Q, X, còn những vần khác vẫn phải tra chung và dùng theo họ tên người nước ngoài.

Năm 1979, Thư viện Quốc gia Việt Nam đã biên soạn và xuất bản 3 bảng ký hiệu tác giả (cho sách báo chữ Việt, chữ Nga và chữ Latinh) kèm theo Bảng phân loại dùng để sắp xếp sách trên giá kho phụ của các thư viện đại chúng.

Cấu tạo Bảng ký hiệu tác giả dùng cho sách báo chữ Việt gồm 2 phần: Phần các nguyên âm và phụ âm (đơn và kép xếp theo thứ tự chữ cái) và Phần các vần (tương ứng với mỗi vần là một số gồm 3 chữ số có sử dụng cả số 0). Ký hiệu tác giả được tạo lập bằng cách : trước hết, ghép phụ âm với vần (trường hợp tên tác giả bắt đầu bằng phụ âm), hoặc bằng cách lấy ngay vần sẵn có trong Bảng (trường hợp tên tác giả bắt đầu bằng nguyên âm) để tìm số thích hợp; sau đó ghép số này với chữ cái đầu tên tác giả (trường hợp tên tác giả bắt đầu bằng phụ âm kép, thì lấy 2 chữ cái đầu).

Bảng này qui định việc tạo ký hiệu tác giả theo tên riêng, sau đó thêm chữ cái đầu của họ vào cuối trong ngoặc đơn, thí dụ: Số Cutter của Nguyễn Du sẽ là D500(N), tức là theo truyền thống lập tiêu đề mô tả chính và sắp xếp họ tên người Việt Nam theo trật tự đảo: tên trước, họ sau: DU (Nguyễn). Một đặc điểm nữa của Bảng này là tạo các vần phụ âm kép riêng (Ch, Gi, Gh, Kh, Ng, Nh, Ph, Th, Tr), tức là không theo cách sắp xếp của các từ điển Việt Nam hiện đại (Ch nằm trong vần C, Th nằm trong vần T,...) [ 1 ].

Năm 2001, trong quá trình chuẩn bị triển khai kho sách mở hiện đại, Trung tâm Thông tin Tư liệu KHCNQG đã biên soạn và áp dụng Bảng ký hiệu tác giả 3 chữ số dùng cho sách Việt. Bảng này xây dựng trên nguyên tắc Cutter (kết hợp giữa chữ cái và số thập phân, không dùng số 0), tạo điều kiện sắp xếp họ tên tác giả theo trật tự thuận (kết hợp giữa chữ cái đầu của họ với số Cutter của tên riêng), và theo cách sắp xếp thứ tự chữ cái của các từ điển hiện đại (không tách riêng các vần bắt đầu bằng phụ âm kép).

Bảng ký hiệu tác giả do Trung Tâm biên soạn gồm có hai phần: Phần nguyên âm ( A, Ă, Â, E, Ê, I, O, Ô, Ơ, U, Ư, Y) và phần phụ âm kép (Ch, Gh, Kh, Ng, Nh, Ph, Th, Tr)

- Phần nguyên âm dùng để tra trực tiếp tên các tác giả, bút danh, nhan đề bắt đầu bằng nguyên âm. Thí dụ : Anh (A118), Yêm (Y438).

Phần này cũng dùng để tra ghép tên tác giả bắt đầu bằng phụ âm đơn. Thí dụ: Bửu, Minh, Tuấn... Trong trường hợp này, trước hết tra "phần của tên" bắt đầu bằng nguyên âm (ưu, inh, uấn). Sau đó, ghép các số tương ứng tìm được với phụ âm đầu tên (B, M, T).

- Phần phụ âm kép dùng để tra trực tiếp tên các tác giả, bút danh, nhan đề bắt đầu bằng phụ âm kép (Phụ âm kép chỉ dùng để tra; khi tạo số Cutter, chỉ lấy phụ âm đầu mà thôi)

Thí dụ: Tác giả Lê văn Thiêm sẽ có số Cutter tương ứng với tên riêng trong bảng là : T189, cộng thêm chữ cái đầu của họ sẽ là LT189. [ 2 ]

Qui trình định số cutter (Theo bảng Cutter-Sanborn)

Tra bảng Cutter, xác định nhóm chữ cái phù hợp với họ hoặc tên tác giả cá nhân hoặc tên tác giả tập thể là tiêu đề mô tả chính của sách. Lấy chữ cái đầu tiên kết hợp với các số ả rập liền kề ở bên phải để tạo thành số Cutter. Tra triệt để đến vần tận cùng (không nửa vời) để có được số Cutter thích hợp nhất, trùng khớp nhất.

Thí dụ :

Dewet 518

Dewey 519

Dewi 521

Căn cứ vào dẫy số trên, số Cutter của tác giả Melvil Dewey là D519. Không lấy số nửa vời D515 (Dew)

Nếu trong Bảng, không có 1 số nào trùng khớp hoàn toàn với họ tên tác giả cần số hoá theo Cutter, thì sử dụng số đầu tiên (số bên trên) trong các số gần gũi nhất đối với tên tác giả đó.

Thí dụ D685 lấy làm số Cutter cho tác giả J. Donne, dựa trên 2 số gần gũi trong Bảng là:

Donn 685

Donner 686

Số Cutter được sử dụng như các số thập phân. Do đó, khi cần thiết, bất kỳ số nào cũng có thể được mở rộng bằng cách thêm các chữ số vào cuối. Chẳng hạn, nếu S643 đã được phân định cho tác giả Benjamin Smith và S644 đã được phân định cho tác giả Charles Smith thì đối với tác giả Brian Smith, có thể dùng số S6435. Trật tự sắp xếp sách theo các tác giả này sẽ là:

S643, S6435, S644

Số 5 thường được chọn làm chữ số bổ sung nhằm mục đích để dành chỗ về hai phía (trên và dưới) cho những trường hợp cần xen vào Bảng trong tương lai.

Khi 2 cuốn sách của hai tác giả khác nhau được phân loại trong cùng một mục, lại có chung số Cutter trong Bảng, thì tạo 1 số khác cho tác giả thứ 2, bằng cách bổ sung một chữ số vào cuối, thí dụ M282 cho Michael Mann và M2825 cho Thomas Mann.

Khi 2 hoặc nhiều tác giả cùng họ (khác tên), viết về cùng một chủ đề, thì những tác giả ấy được phân định những số Cutter khác nhau. Thí dụ, D548 cho David Dickenson và D5485 cho Robert Dickenson.

Khi cùng 1 tác giả viết nhiều tác phẩm về cùng một chủ đề, thì sử dụng thêm ký hiệu tác phẩm, ký hiệu lần xuất bản hoặc năm xuất bản và số (thứ tự) tập và số (thứ tự) bản để tạo thành ký hiệu xếp giá đơn nhất cho từng tác phẩm.

Dấu hiệu tác phẩm (workmark hoặc workletter)

Dấu hiệu tác phẩm được bổ sung vào số Cutter để phân biệt những cuốn sách khác nhau về cùng một chủ đề và do cùng một người viết. Dấu hiệu tác phẩm thường ghi tiếp ngay sau số Cutter và gồm 1 hay nhiều chữ cái đầu tiên (viết thường) của từ đầu tiên (không kể mạo từ, đối với sách Âu Mỹ) trong nhan đề tác phẩm.

Thí dụ:

D548i Introduction to Algebra by Dickenson

D548p Principles of Algebra by Dickenson

H895m Les misérables par Victo Hugo

Để phân biệt các tác phẩm viết về một tác giả với các tác phẩm do tác giả ấy viết, sử dụng chữ z (viết thường) xen giữa số Cutter và dấu hiệu tác phẩm. Trong trường hợp này, dấu hiệu tác phẩm qui ước lấy theo tên người viết tiểu sử. Làm như vậy, sách về một tác giả (nhân vật chí) sẽ xếp sau các tác phẩm do tác giả ấy viết.

Thí dụ:

T181Lv Vàng và máu / Thế Lữ

T181Lzh Thế Lữ-cuộc đời trong nghệ thuật/ Hoài Việt biên soạn

(T181L là Ký hiệu tác giả định cho Thế Lữ (Bút danh), theo Qui tắc của Trung tâm TTTLKHCNQG)

Để xếp các toàn tập hay tuyển tập của một tác giả lên trước các tác phẩm riêng lẻ của tác giả đó, người ta không dùng dấu hiệu tác phẩm cho các toàn tập hay tuyển tập.

T181L Tuyển tập / Thế Lữ

T181Lm Mấy vần thơ / Thế Lữ

T181Lt Trại Bồ Tùng Linh / Thế Lữ

Ký hiệu lần xuất bản

Trong thực tế, có nhiều tác phẩm được xuất bản nhiều lần, có chung ký hiệu phân loại và số Cutter. Để tạo lập một ký hiệu xếp giá đơn nhất cho mỗi lần xuất bản, người ta thêm một Ký hiệu lần xuất bản dưới dạng số vào sau ký hiệu tác phẩm.

Thí dụ: Số Cutter của các lần xuất bản lần thứ 2, 3, 4, 5 của tác phẩm "Dế mèn phiêu lưu ký" của Tô Hoài thể hiện như sau:

T311Hd2 T311Hd3 T311Hd4 T311Hd5

Số tập và số bản

Khi một tác phẩm xuất bản thành nhiều tập (Sách nhiều tập), hoặc khi Thư viện có nhiều bản của một đầu tên sách, ta phải bổ sung số (thứ tự) tập và số (thứ tự) bản vào ký hiệu xếp giá để tạo một địa chỉ duy nhất cho sách trong kho mở. Số thứ tự tập cách số bản một dấu vạch xiên (/).

Kết luận

Định số Cutter là một công đoạn xử lý tài liệu, tuy khá đơn giản, nhưng cũng mất công sức, thời gian và dễ mắc sai sót. Đối với quá trình biên mục từng bản sách cụ thể, số Cutter là yếu tố duy nhất trong biểu ghi thư mục mà thường xuyên nên hiệu chỉnh để đảm bảo ký hiệu xếp giá của sách là đơn trị và ăn khớp với mục lục vị trí của thư viện. Do vậy đã có nhiều dự án phát triển các thuật toán để tự động tạo các số Cutter hoặc giúp người biên mục định các chỉ số đó. Người ta đã soạn thảo chương trình định chỉ số Cutter tự động, coi như một tiện ích kèm theo một chương trình quản trị thư viện tích hợp có bán trên thị trường.

Hiện nay, trên thế giới, ở hầu hết các thư viện lớn, chính qui, đặc biệt là các thư viện công cộng, các thư viện tổng hợp và đa ngành, người ta đều áp dụng chỉ số Cutter cho sách trong kho mở. Tuy nhiên, cũng có nhiều thư viện nhỏ, nhất là một số thư viện chuyên ngành khoa học kỹ thuật, không áp dụng các bảng Cutter, mà sau khi phân theo từng mục phân loại hay chủ đề, sách sẽ được xếp theo thứ tự nhập về thư viện (những sách mới sẽ tập trung vào cuối mục), với lý do là trong lĩnh vực này bạn đọc quan tâm đến những thông tin và tư liệu mới hơn là tìm sách trên giá theo họ tên tác giả.

Tài liệu tham khảo

Bảng kí hiệu tác giả: dùng cho sách báo chữ Việt / Thư viện Quốc gia. - Hà Nội, 1979. - 11tr.

Định ký hiệu tác giả cho sách trong kho mở: Tài liệu hướng dẫn / Trung tâm Thông tin Tư liệu KHCNQG . - Hà Nội, 2001. -11 tr.

Cataloging and classification: an introduction/ Lois Mai Chan. - N.Y.: McGraw-Hill, 1994. - 519p.

Cutter-Sanborn three-figure author table. - Swanson-Swift Revision. Chicopee, (Mass.) : H.R.Hunting Co .- 1969. – 71p.

Cutter three-figure author table. - Swanson-Swift Revision. – Chicopee, (Mass.) : H.R.Hunting Co .- 1969. – 61p.

Cuttering for the Library of Congress Classification / E.T. O’Neill. - URL: /OCLC/research/publications/review94.htm.

Introduction to cataloguing and classification/ B.S. Wynar . - 8 ed./ A.G. Taylor. Englewood: Libraries Unlmt.Inc.,1992. - XIII, 632p.

Understanding call numbers-QUT Library. - URL: http://wwwlib.qut.edu.au/services/usered/newsys/callnumbers.html.

Bài viết đã được đăng bởi Vietnamlib.net

Thứ Năm, 3 tháng 6, 2010

Tiêu chuẩn hóa thông tin thư viện y học

1. Tập huấn về thư viện:

Vừa qua, Viện Thông tin Thư viện Y học Trung Ương (CIMSI), BYT đã tổ chức tập huấn đợt 1 về : "Tiêu chuẩn hóa trong hoạt động thông tin thư viện y học trực thuộc BYT” theo hệ thống :

- MeSH(Medical Subject Heading) của thư viện Y học quốc gia Hoa Kỳ.
- NLM(National Library of Medicine) của thư viện Y học quốc gia Hoa Kỳ .
- Classification MARC 21(Machine Readable Cataloging 21) của Anh-Mỹ .
cho các tỉnh phía Nam, từ Đà Nẵng trở vào.

Tài liệu tập huấn có thể download trực tiếp trên website: http://www.cimsi.org.vn

Địa điểm: Trường Đại học Y Dược TP.HCM .
Thời gian: từ 13 đến 16/5/2009 .

Số học viên gồm 16 người của 11 đơn vị được phân bổ như sau: Trung tâm học viện Đà Nẵng (1 người), Viện Vệ sinh Dịch tễ Tây Nguyên (1), Viện Vaccin Nha Trang (1), Viện Pasteur TP.HCM (1), Viện Sốt rét-KST-CT TP.HCM (1), ĐHYD.TPHCM (3), ĐH Y Phạm Ngọc Thạch (2), BV Chợ Rẫy (1), BV Từ Dũ (2), ĐH Y Cần Thơ (1), BVĐK Kiên Giang (2).

Bế giảng lớp:TS Lương Chí Thành - Viện trưởng Viện thông tin thư viện y học Trung ương (X)
GSTS Tuấn - Phó Hiệu trưởng ĐHYD TP.HCM (XX)
Ảnh: BS Thanh Xuân , ĐHYD.TPHCM

Đợt 2: dự kiến vào tháng 6/2009 cho các tỉnh phía Bắc(từ Huế trở ra).

2. Thông tin về: Tìm kiếm thông tin y tế trực tuyến:

* Các bạn có thể tham gia đăng ký tìm thông tin y tế, thu thập tài liệu từ “Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia” =NACESTI(National center Scientifics and Technological Information )

Theo địa chỉ: http://db.vista.gov.vn
Với lệ phí hàng năm: 300.000 VNĐ/năm

Bạn được truy cập: 5 lần/ngày (mỗi lần truy cập có thể download 20 bài)

3. Một số địa chỉ trang web :

  • Các công cụ tìm kiếm các trang web:http://www.hon.ch/MedHunt/: tìm kiếm các thông tin y khoa trong Medhunt.
  • Các danh mục: http://www.google.com/dirhp hay http://dmoz.org(dự án danh mục mở)
  • Các thư viện số: http://infomine.ucr.eduhttp://www.intute.ac.uk
  • Cung cấp cho bạn những gợi ý vế các nguồn thông tin hiện có trên mạng và các địa chỉ truy cập của chúng. Bạn có thể truy cập những tài liệu này bằng cách nhấp chuột vào các đường dẫn…
  • Địa chỉ một số trang web:

Sức khỏe sinh sản và sức khỏe bà mẹ, gồm cả mang thai và sanh con:
http://www.who.int/rhl/en/ (WHO Reproductive Health Library=thư viện SKSS)
http://www.who.int/rhl/access/en/index.html (RHL access information)
http://www.who.int/making_pregnancy_safer/en/ (WHO Making Pregnancy Safer)
http://www.who.int/making_pregnancy_safer/document/ (MPS publications)
http://www.who.int/reproductive-health
http://www.infoforhealth.org/index.php
http://www.infoforhealth.org/RHGateway/index.shtml
http://www.intute.ac.uk (SKSS+sức khỏe tình dục+ mang thai và sinh con)
http://www.intute.ac.uk/healthandlifesciences/booklets/

http://emedicine.medscape.com/ tổng quan cập nhật liên tục về hàng ngàn chủ đề y tế, bao gồm cả phụ, sản. Nếu bạn nhấn chuột vào đó, bạn sẽ có 1 thực đơn, trong đó có chuyển dạ và sinh con, những tai biến thai sản và những tai biến sản khoa.
http://www.gfmer.ch/Guidelines/Obstetrics_gynecology guidelines.php : cung cấp các bộ sưu tập quốc tế về hướng dẫn lâm sàng và các khuyến nghị hành nghề khác về tất cả khía cạnh của phụ, sản, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, mang thai, nhiễm trùng mẹ, chuyển dạ, sanh con và chăm sóc sau sanh.

Liên quan đến sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Truy cập vào trang web và nhấn vào chủ đề bạn quan tâm. Khi trang mới hiện ra, bạn hãy nhấn vào “ PubMed Free Full Text” ở đầu trang và phép tìm được sẽ được tự động thực hiện..
http://www.reproline.jhu.edu/index.html ( Reproline tại ĐH Johns Hopkins)
http://www.who.int/reproductiverights.org/worldwide.html (trung tâm về quyền sinh sản).
http://www.engenderhealth.org/ (Engender Health)
http://www.path.org/reproductive-health.php (PATH)
http://www.rho.org/index.php ( Pathfinder International)
http://www.guttmacher.org (Alan Guttmacher Institute)
http://www.ippf.org/en/ ( liên minh quốc tế Kế hoạch hóa sanh đẻ)
+ http://www.freebooks4doctors.com: Cung cấp các sách điện tử về y khoa với hơn 600 cuốn sách điện tử được cung cấp MP. Hầu hết các tài liệu mới được đưa lên trang web này…
+ http://www.nlm.nih.gov (trang chủ của thư viện Y học Quốc gia Mỹ)
+ http://www.pubmed.org (Cơ sở dữ liệu Medline/PubMed)
+ http://www.ncbi.nlm.nih.gov/sites/entrez/query.fcgi?db=Books(cơ sở dữ liệu Bookshelf tại NLM):Thư viện Y học quốc gia của Mỹ(NLM)sở hữu 1 cơ sở dữ liệu bao gồm các cuốn sách trực tuyến có tên la Bookshelf. Bạn có thể xem toàn danh sách, chọn 1 quyển, mở ra đọc, có thể tải sách lần lượt từng chương về máy miễn phí.
+ http://www.ncbi.nlm.nih.gov/sites/entrez?db=nlmcatalog:(mục lục của TV Y học quốc gia Mỹ): Nhiều thông tin thư mục các tài liệu trực tuyến MP, 1 số tài liệu được ghi rõ là” tài liệu điện tử”, sách hoặc các tài liệu khác. Nhưng khi bạn nhấn vào tên tài liệu và truy cập vào trang cung cấp các thông tin thư mục đầy đủ, bạn sẽ thấy 1 đường dẫn đến trang giúp bạn truy cập toàn bộ nội dung tài liệu. Bạn có thể giới hạn việc tìm kiếm các sách điện tử … bằng cách nhấn vào công cụ hạn chế tìm rồi nhấn vào “Links to Full Text”.
+ http://www.nlm.nih.gov/mesh/meshhome.html (đề mục chủ đề y học –MeSH).
+ http://www.nlm.nih.gov/databases/ (danh mục các CSDL của thư viện Y học Hoa Kỳ)
+ http://medlineplus.gov (CSDL MedlinePlus)
+ http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/tutorial.html (hướng dẫn tự học)
+ http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/surgeryvideos.html (các băng video phẫu thuật)
+ http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/druginformation.html (các thông tin về thuốc)
+ http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/encyclopedia.html (bách khoa thư y học)
+ http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/mplusdictionaryl.html (từ điển y học)
+ http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/healthtopics.html (các chủ đề y học)
+ http://www.pubmedcentral.nih.gov: Lưu trữ các bài báo toàn văn miễn phí và 1 danh mục các tạp chí truy cập miễn phí từ 1966 cho đến nay.. Để xem danh sách này, bạn nhấn vào “ Journal List” ở phía đầu trang, sẽ hiện ra bảng danh sách của tên các lọai báo xếp theo vần ABC…+ +
+ http://www.medicalstudent.com # Medical Texbooks: Cho phép truy cập đến hàng trăm cuốn giáo trình trong từng lãnh vực chuyên môn cụ thể về ngành y..
+ http://www.who.int : Cung cấp số lượng lớn nhất về sách điện tử miễn phí liên quan đến y tế.
Hãy truy cập trang web của WHO và nhấn vào “ Publications”. Từ trang này, bạn có thể truy cập được đến nhiều nhà xuất bản quan trọng của WHO. Bạn có thể tìm trong số 180000 quyển sách và các tài liệu miễn phí khác bằng cách chọn “online” (trực tuyến) dưới mục “location”(địa chỉ)
+ HighWire Press:http://highwire.stanford.edu + http://highwire.stanford.edu/lists/freeart.dtl
Cho phép truy cập hơn 1 triệu bản báo toàn văn miễn phí của hơn 900 tờ báo. Hầu hết các bài báo đều về y sinh học hoặc y tế. Ngoài ra, Highwire cũng chứa hơn 250 tên báo trong lãnh vực Dược học. Để tìm được các bài báo miễn phí, nhấn chuột vào mục ”more search options” ở phía trên và ở phía bên phải của thanh tìm kiếm chính. …
+ http://www.doaj.org (truy cập các tạp chí miễn phí về tất cả các lãnh vực, cung cấp các danh mục trích dẫn tất cả các tạp chí miễn phí theo từng lãnh vực có kèm theo hướng dẫn tới trang web của tờ báo ấy).
+ http://www.freemedicaljournals.com (bao gồm 430 các bài báo cung cấp MP được phân loại theo ngôn ngữ, chủ đề).
+ http://www.healthnet.org/essential-liks/index.html: Bao gồm 1 danh sách các trang web để truy cập vào các tờ báo. Từ phần menu, kéo xuống và tìm đến” Full-text E-Journals”. Đây là phần liệt kê các website cung cấp các bài báo miễn phí và những trang của các chương trình như HINARI….
http://www.gfmer.ch/Medical_journals/Free_medical.php: Bao gồm những tạp chí trực tuyến miễn phí và bạn sẽ nhận được 1 danh sách các tờ báo MP với các đường dẫn truy nhập.
.http://www.pubmed.org: Bạn có thể liệt kê tất cả các bài báo toàn văn miễn phí. Nhập thuật ngữ tìm hoặc chuỗi tìm, chọn”Limits” và chọn “ Links to free full text”…
http://journals.bmj.com/subscriptions/countries.shtml: Cung cấp các số báo của tạp chí này miễn phí cho các nước đang phát triển.
http://www.inasp.info:
http://www.who.int/hinari (vào Medline/PubMed)Hãy bắt đầu bằng việc đăng nhập và xem trang thông tin. Nhấn vào “Search HINARI articles through PubMedMedline)”, thực hiện phép tìm. KHÔNG sử dụng trang cung cấp các tính năng giới hạn trong phép tìm và nhấn vào “Links to free full text”, vì như thế, bạn sẽ mất cơ hội truy cập vài triệu bài báo trong HINARI là lọai bài không cho phép MP……………

Nguồn tư liệu: Chương trình đào tạo quốc gia ” Phát triển năng lực truy cập và sử dụng thông tin y tế trực tuyến” 3/2009 tại Hà Nội của Martha J.Garrett (Giám đốc tổ chức INFORM).

* Nội dung chi tiết danh mục sách tại Thư viện vui lòng bạn tải file .pdf.

Đăng ký | Quê

Thứ Tư, 2 tháng 6, 2010

Thư viện SKSS(WHO)

Ảnh hưởng của hội nghị và hội thảo đào tạo liên tục trên thực hành chuyên môn và kết cục sức khỏe.

Hội thảo tích cực nhiều khả năng hiệu quả hơn kiểu huấn luyện thuyết trình. Lối trình bày theo sách giáo khoa không làm thay đổi được thực hành. Hội thảo tích cực chủ yếu dựa trên sự trao đổi thông tin và kỹ năng điều phối của người hướng dẫn.

Bình luận RHL của Smith H, Brown H, Khanna J

1. TÓM TẮT CHỨNG CỨ

Những tài liệu liên quan
:: Tổng quan Cochrane
:: Những khía cạnh thực hành của RHL

Về tác giả
:: Smith H, Brown H, Khanna J

Mục tiêu của tổng quan nhằm trả lời cho câu hỏi: Những hội nghị và hội thảo đào tạo có cải thiện hiệu quả thực hành lâm sàng không? Để trả lời câu hỏi này, tổng quan đã phân tích 32 nghiên cứu (cả thử nghiệm ngẫu nhiên và nghiên cứu với thiết kế bán ngẫu nhiên bao gồm 2995 nhân viên y tế) để đánh giá kết cục của những hội nghị đào tạo so với nhóm chứng không can thiệp. Tất cả các nghiên cứu được các tác giả đánh giá, tuân theo tiêu chí được mô tả trong tổng quan, có chất lượng từ trung bình đến cao về phương diện tránh sai lệch. Chủ yếu, tổng quan này so sánh:

  • hội nghị đào tạo có hoặc không có tài liệu đào tạo so với không can thiệp/chăm sóc thông thường; và
  • hội nghị đào tạo có sử dụng những hoạt động tương tác so với những hội thảo dựa vào bài giảng.

Hội nghị đào tạo so với không can thiệp

Nhìn chung, 24 trong 32 nghiên cứu được đưa vào tổng quan ghi nhận có cải thiện đáng kể thực hành chuyên môn (về ít nhất là một kết cục quan trọng); và 3 trong 8 nghiên cứu ghi nhận có những cải thiện có ý nghĩa thống kê về tác động lên những kết cục của bệnh nhân trong nhóm nhân viên y tế được nhận can thiệp- đó là hội nghị đào tạo.

Hội thảo đào tạo chủ động so với hội thảo dựa trên bài giảng (theo hình thức sách giáo khoa)

So sánh này là một mục tiêu quan trọng của tổng quan, dù rằng đây không phải là câu hỏi nghiên cứu chính. Chỉ có một trong 32 nghiên cứu thực hiện so sánh trực tiếp, và không tìm thấy sự khác biệt giữa hai hình thức tiếp cận này. Tuy nhiên, khi các tác giả so sánh hai hình thức tiếp cận này qua các nghiên cứu, với 6 trong 10 so sánh, họ tìm được tác động tích cực có ý nghĩa thống kê ở mức độ trung bình hoặc khá cao của những hội thảo chủ động; trong số 4 nghiên cứu còn lại, họ tìm ra tác động tích cực ở mức độ thấp, với chỉ một kết quả đạt ý nghĩa thống kê. Trong một nhóm của 19 so sánh khác ghi nhận hình thức kết hợp cả tiếp cận chủ động với tiếp cận giảng dạy theo sách giáo khoa so với hình thức tiếp cận chỉ bao gồm giảng bài theo sách giáo khoa, 12 được ghi nhận có tác động tích cực ở mức độ trung bình đến khá cao (11 có ý nghĩa thống kê) và 7 có tác động tích cực ở mức độ thấp. Hội nghị với hình thức giảng dạy theo sách giáo khoa không ghi nhận có tác động đáng kể lên thực hành của nhân viên y tế.

Khi bàn luận các kết quả trên, nhóm tác giả thừa nhận rằng những kết quả này không rõ ràng và cần phải được đánh giá thận trọng. Họ nêu ra những điểm yếu chính của các nghiên cứu thu nhận như báo cáo thiếu sót về phương pháp nghiên cứu, không đủ thông tin về theo dõi nhân viên y tế và không thực hiện làm mù khi đánh giá kết cục. Họ cũng cho rằng sai lệch do xuất bản (tức là những nghiên cứu báo cáo kết quả dương tính thường có cơ hội xuất bản hơn) và đánh giá quá mức tác động tích cực của đào tạo liên tục có thể làm ảnh hưởng các kết quả. Trong khi xem nhẹ giá trị của những tác động tích cực chung của hội nghị và hội thảo trong cải thiện thực hành của nhân viên y tế, các tác giả tin rằng chủ đề so sánh hội thảo giảng dạy so với hội thảo chủ động có tầm quan trọng lớn hơn rất nhiều trong bối cảnh đào tạo y khoa liên tục. Niềm tin này giải thích tại sao tổng quan này, với mục tiêu nhằm trả lời một cách đơn giản xem liệu hội thảo đào tạo có làm cải thiện thực hành không, lại bị che lấp bởi những bàn luận quá dài, và đôi khi không phù hợp, về so sánh giữa hình thức hội thảo chủ động với hội thảo giảng dạy. Cuối cùng nhóm tác giả kết luận với chiều hướng ủng hộ hình thức đào tạo chủ động (dựa vào những lý thuyết về giáo dục và phân tích định tính), cho dù trong tổng quan này bằng chứng ủng hộ kết luận này khá yếu: ghi nhận rằng chỉ duy nhất một nghiên cứu có tiến hành so sánh này lại không tìm được những tác động tích cực nào, mặc dù những so sánh giữa các nghiên cứu ghi nhận có tác động "trung bình" hoặc "khá lớn" trong nhiều trường hợp.

Phương pháp sử dụng truy tìm tài liệu phù hợp với tiêu chuẩn của Cochrane và thích hợp. Nhóm tác giá cẩn thận áp dụng tiêu chuẩn chọn lựa và đánh giá chất lượng các nghiên cứu dựa vào từng thiết kế, trong lúc không có thông tin về đánh giá kết cục và mức độ hoàn tất của theo dõi và sau đó ước lượng độ tin cậy của những nghiên cứu phù hợp dựa vào mức độ tránh thiên lệch (cao, vừa, thấp). Hai nhà tổng quan độc lập thu nhận thông tin từ các nghiên cứu.

Phương pháp tiến hành của tổng quan quá chi tiết, phức tạp và nói chung khó theo dõi. Nhóm tác giả tiến hành nhiều phương thức phân tích để đánh giá mức độ dao động trong các kết quả nghiên cứu và chất lượng các nghiên cứu. Ví dụ, họ ước lượng một cách chủ quan những thực hành khác nhau đã được sử dụng để đo lường các kết cục trong các nghiên cứu dựa vào mức độ phức tạp. Tuy vậy, tổng quan không nêu rõ cách ước lượng này được sử dụng như thế nào để đánh giá kết quả.

2. Khả năng ứng dụng cho những cơ sở có nguồn lực hạn chế

2.1. Tầm quan trọng của vấn đề

Nhu cầu đào tạo liên tục y khoa trên phạm vi toàn cầu liên quan đến những bước tiến nhảy vọt trong chăm sóc sức khỏe. Do đó, câu hỏi đặt ra không phải là có cần đào tạo liên tục hay không, mà là hình thức đào tạo nào mang lại hiệu quả thay đổi thực hành như mong đợi—đây chính là mục tiêu của tổng quan này. Bằng chứng ghi nhận hội nghị và hội thảo đều có những tác động có lợi lên thực hành chuyên môn. Tuy vậy, những hình thức này tốn kém cả về thời gian và chi phí. Tại những nước đang phát triển, thậm chí nhiều tạp chí hoặc tài liệu cập nhật vẫn còn thiếu thốn, hội nghị và hội thảo có vẻ như quá xa xỉ đối với nhiều bác sĩ, và những công ty dược phẩm đã ghi nhận thực tế này. Đối với rất nhiều bác sĩ tại các nước đang phát triển, hội nghị và hội thảo do các hãng dược phẩm tại trợ và tổ chức là hình thức duy nhất họ có thể tham dự. Chắc chắn là những hội thảo này luôn có những nội dung quảng cáo rất mạnh (được củng cố bằng quà tặng hay nhiều hình thức khác) và điều này có thể gây bất lợi cho quá trình cổ vũ những kiến thức chuyên môn khách quan dựa trên chứng cứ.

2.2. Khả năng ứng dụng vào thực tế

Cần đánh giá chi phí-hiệu quả của việc áp dụng các hình thức hội nghị và hội thảo trong việc thay đổi thực hành chuyên môn tại những địa phương có thu nhập thấp và trung bình. Thiếu thốn nguồn lực tại nhiều nước có thu nhập thấp bao gồm thiếu nhân viên trầm trọng, đồng nghĩa với nhân viên gặp nhiều khó khăn khi tham gia những chương trình đào tạo liên tục. Thiếu nhân viên cũng có nghĩa là khối lượng công việc của nhân viên rất nhiều, tinh thần của nhân viên có thể thấp và bất kỳ can thiệp nào nhằm đến việc làm thay đổi thực hành lâm sàng cũng khó duy trì nếu thiếu những tác động liên tục từ bên ngoài (1). Đặc biệt những can thiệp được đưa vào các nước nghèo từ mô hình của các nước giàu thường chỉ có thể duy trì khi kinh phí hỗ trợ còn tồn tại. Những can thiệp như của Sáng kiến cho việc sinh đẻ tốt hơn (2), nhằm vượt qua điều này bằng cách tìm kiếm các nguồn tài trợ trong nước.

Thử thách dường như nằm trong việc xây dựng những hình thức thay thế có chi phí thấp sử dụng cho những cơ sở có nguồn lực hạn chế, bao gồm những tác động thành công của hình thức hội thảo chủ động được sử dụng tại những nước giàu và chưa nhận thức được những khó khăn về nguồn lực. Sáng kiến cho việc sinh đẻ tốt hơn (3), sử dụng một hội thảo tương tác với những phương tiện đào tạo có chi phí thấp để tác động đến những thực hành của nữ hộ sinh; chiến lược này, đã được thí điểm tại các bệnh viện tỉnh Gauteng, Nam Phi, nay đã được triển khai tại 4 trong 9 tỉnh của Nam Phi và sẽ được đánh giá để xác định tác động và khả năng duy trì.

2.3. Khả năng áp dụng của các kết quả của bài tổng quan Cochrane

Giới hạn của tổng quan này (và của những tổng quan hệ thống khác về những can thiệp nhằm thay đổi thực hành chuyên môn) là giá trị bên ngoài hay khả năng khái quát hóa kết quả. Điều này một phần do thiếu những nghiên cứu phù hợp từ những quốc gia có thu nhận thấp và trung bình (những nơi ưu tiên đánh giá hiệu quả của những can thiệp lâm sàng), hơn là thiên lệch do thu nhận. Trong số 32 nghiên cứu được thu nhận, 24 được tiến hành tại Nam Mỹ, 2 tại Anh Quốc, và 1 tại Úc, Brazil, Pháp, Indonesia, Sri Lanka và Zambia. Việc chỉ thu nhận được 4 nghiên cứu từ những quốc gia có thu nhập thấp và trung bình (khác) đã giới hạn khả năng khái quát hóa các kết quả của tổng quan tại những nơi này.

2.4. Khả năng tiến hành những can thiệp

Nhóm tổng quan kết luận rằng những người tổ chức hội nghị đào tạo liên tục cần phải tiến hành dưới hình thức chủ động hơn là hình thức bài giảng. Trong khi hình thức học tập tương tác chủ động và dựa theo vấn đề ngày càng được sử dụng nhiều hơn tại các hội thảo đào tạo tại những quốc gia giàu, hình thức giảng dạy theo sách giáo khoa vẫn còn được nhiều báo cáo viên lựa chọn. Hình thức tương tác chủ động đòi hỏi phương thức tiếp cận sáng tạo hơn về cả dạy và học, và nhiều kỹ năng khác nhau để quản lý nhóm học viên. Tại những quốc gia thu nhập thấp những kỹ năng thuyết trình này thường hạn chế, điều này ảnh hưởng đến chi phí của can thiệp khi cần mời những báo cáo viên từ bên ngoài.

Có thể tổ chức những hội nghị và hội thảo tại những bệnh viện giảng dạy tại các nước đang phát triển. Tuy nhiên những hội nghị này vẫn dựa phần lớn vào hình thức bài giảng; để tổ chức những hội thảo theo hình thức tương tác chủ động, cần rất nhiều kỹ năng về giao tiếp và trình bày, vốn thường thiếu tại những cơ sở này.

2.5. Nghiên cứu

Do tiềm năng có thể đưa đến những tác động ở mức độ trung bình đến mạnh lên thực hành chuyên môn tại các nước phát triển, cần thêm nhiều nghiên cứu tại những nước có thu nhập thấp và trung bình để xác định mức độ thích hợp và khả năng ứng dụng của hội thảo chủ động tại những cơ sở có nguồn lực hạn chế. Bên cạnh những kết cục quan trọng (như tác động lên thực hành chuyên môn và kết cục của bệnh nhân), những nghiên cứu sau này cần ghi nhận những đánh giá kinh tế, khả năng duy trì những kết cục quan trọng và nghiên cứu định tính nghiêm ngặt. Những nghiên cứu quan sát và định tính có thể giúp xác định hoàn cảnh để tiến hành những can thiệp, những qui trình và tương tác xã hội trong hoàn cảnh đó. Điều này giúp làm tăng hiểu biết về những yếu tố thành công quan trọng trong quá trình thay đổi thành vi và xác định những ảnh hưởng đặc biệt của hội thảo góp phần thay đổi thực hành chuyên môn (4).

Ban giám đốc Bệnh viện Từ Dũ qua các thời kỳ

Ban Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ qua các thời kỳ
Từ ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, Bệnh viện Từ Dũ đã từng bước được xây dựng, phát triển và đổi mới dưới sự dẫn dắt của các thế hệ lãnh đạo tài năng và giàu y đức.

Giai đoạn 1975 - 1976:



BS. Phan Thị Thương
Giám đốc

Bs. Tạ Thị Chung
Bí thư Đảng ủy

Giai đoạn 1977 - 1989
Năm 1977 - 1982:

BS. Bùi Sỹ Hùng - Giám đốc

BS.Tạ Thị Chung - PGĐ

BS.Hoàng Mộng Châu - PGĐ

BS.Nguyễn Châu Kỳ - PGĐ
Năm 1982 - 1986:
BS.Tạ Thị Chung - PGĐ

BS.Hoàng Mộng Châu - PGĐ

BS. Nguyễn Châu Kỳ - PGĐ

BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng - PGĐ


BS. Bùi Sỹ Hùng
Giám đốc
Giai đoạn 1990 - 2005
Năm 1990 - 1993:

BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng - Giám đốc

BS.Tạ Thị Chung - PGĐ

BS. Nguyễn Thị Mẫn - PGĐ

BS. Trần Hữu Lập (01/1991) - PGĐ

Năm 1994-1998:

BS.Tạ Thị Chung - PGĐ

BS. Trần Hữu Lập - PGĐ

BS. Phạm Việt Thanh (04/1994) - PGĐ

Năm 1998 - 2001:

BS. Trần Hữu Lập - PGĐ

BS. Phạm Việt Thanh – PGĐ

Năm 2002 - 2005:

BS. Phạm Việt Thanh - PGĐ

BS. Trần Hữu Lập - PGĐ

BS. Huỳnh Thị Thu Thủy (02/2002) - PGĐ

DS. Huỳnh Thị Thanh Thủy (02/2002) - PGĐ






BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng
Giám đốc
Giai đoạn 2005 - Hiện nay

Bs. Phạm Việt Thanh - Giám đốc

Bs. Huỳnh Thị Thu Thủy - PGĐ

DS. Huỳnh Thị Thanh Thủy - PGĐ

BS. Lưu Thế Duyên (05/2005) - PGĐ

Bs. Phạm Việt Thanh
Giám đốc

Giới thệu phần mềm quản lý thư viện

Phần mềm

PHẦN MỀM QUẢN LÝ THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ

eLib

Phần mềm thư viện điện tử: giải pháp tin học hóa toàn diện cho các thư viện ngày nay. Sản phẩm này đã thực sự ứng dụng CNTT để tự động hóa tất cả các chu trình hoạt động của một thư viện hiện đại, cung cấp các tính năng cần thiết cho một thư viện để sẵn sàng hội nhập với hệ thống thư viện quốc gia và quốc tế, cũng như quản lý các xuất bản phẩm điện tử.

Đặc điểm nổi bật của phần mềm thư viện điện tử là tuân thủ các quy trình nghiệp vụ, các chuẩn thư viện và khả năng tuỳ biến cao.

Các quy trình nghiệp vụ bao gồm các hoạt động nghiệp vụ của thư viện từ khâu bổ sung tư liệu cho đến khi tư liệu đến tay độc giả.

Các chuẩn thư viện bao gồm:

  • Khổ mẫu trao đổi ISO2709.
  • Khổ mẫu biên mục đọc máy MARC21, UNIMARC.
  • Hỗ trợ công tác biên mục theo các tiêu chuẩn và quy tắc mô tả thư mục ISBD, TCVN 4743-89
  • Hỗ trợ các khung phân loại khác nhau như DDC, BBK, PTB... song song tồn tại.
  • Hỗ trợ các khung đề mục chủ đề, bộ từ khóa thống nhất... nhằm phù hợp với điều kiện thực tế các thư viện tại Việt Nam.

Khả năng tùy biến là khả năng tạo ra các định dạng cho các sản phẩm thư mục từ dữ liệu biên mục một cách tức thời mà không cần thay đổi mã nguồn.

Với thiết kế theo mô hình chủ/khách (client/server) hiện đại, sử dụng giao diện Web, phần mềm này cho phép máy trạm -với gần như bất kỳ cấu hình nào- khai thác hệ thống hiệu quả. Việc chọn lựa cấu hình máy chủ và hệ quản trị CSDL phụ thuộc vào độ lớn của thư viện: số lượng ấn phẩm, số lượng độc giả cần quản lý, lượng giao dịch trong một ngày ... Phần mềm đã hoạt động ổn định với nhiều mô hình thư viện có độ lớn khác nhau, sử dụng các hệ thống nền khác nhau, với hệ quản trị CSDL MS SQL server và DB2, trên hệ điều hành MS Windows NT/2000 và Linux, là những hệ quản trị CSDL và hệ điều hành phổ biến tại Việt Nam.

CÁC CHỨC NĂNG CHÍNH

Tính năng nổi bật

  • Giao diện thân thiện và dễ sử dụng.
  • Là hệ thống tích hợp, tự động hóa được mọi hoạt động nghiệp vụ của Thư viện truyền thống.
  • Trao đổi được dữ liệu liên thông giữa các Thư Viện thông qua trao đổi biểu ghi thư mục.
  • Hỗ trợ tiếng Việt đầy đủ theo chuẩn Unicode, TCVN3.
  • Có khả năng nhập/xuất dữ liệu với CDS/ISIS.
  • Tích hợp mã vạch trong hoạt động nghiệp vụ.
  • Chuyển đổi giữa các phân hệ trong hệ thống một cách dễ dàng.
  • Có khả năng tuỳ biến.
  • Tích hợp với mọi dạng dữ liệu số hóa. Quản lý các dữ liệu số hóa – cho phép số hóa, biên mục, quản lý truy nhập các dạng tài liệu : văn bản, hình ảnh, âm thanh, video – hướng đi mới cho thư viện hiện đại.
  • Thiết kế theo hướng mở, dễ dàng tích hợp thêm các phân hệ mới.
  • Hỗ trợ nhiều dạng thống kê (biểu đồ, báo cáo...)

1. Phân hệ Biên mục

Là một công cụ hữu hiệu và tiện lợi để tiến hành công tác biên mục. Cho phép tiến hành mọi khâu trong quy trình biên mục bao gồm: nhập mới, sửa chữa, xoá, duyệt, xem.
Phân hệ biên mục hỗ trợ chuẩn ISBN và được bổ sung thêm các trường dữ liệu đặc thù cho nghành thư viện Việt Nam.

Phân hệ này còn cho phép kết xuất sản phẩm thư mục đầu ra như phích phiếu.

Một số các tính năng khác:

- Từ điển tham chiếu: Để đảm bảo tính nhất quán trong công tác biên mục. Phần mềm này cho phép hỗ trợ các khung phân loại như BBK, DDC, PTB, các loại từ điển như Nước xuất bản, Ngôn ngữ, Từ khoá, Vật mang tin,…

- Hỗ trợ Unicode, TCVN3.

- Đặc biệt cho phép người dùng nhập trực tiếp các kỳ hiệu phân loại hoặc tự động sinh các ký hiệu phân loại theo từ điển khung phân loại.

- Quản lý nhập kho với khả năng xử lý việc gán và in mã vạch cho số đăng ký cá biệt và các thông tin xếp giá khác.

2. Phân hệ mượn trả

Phân hệ này tin học hóa quá trình lưu thông ấn phẩm giữa thư viện và độc giả đồng thời nó cũng giúp cho thư viện sử dụng hiệu quả các thông tin được ghi nhận trong quá trình mượn trả để tiến hành các thống kê đa dạng.

Hoạt động mượn trả được tự động hóa tối đa nhằm giảm bớt số thao tác thủ công của cán bộ thư viện và vẫn đảm bảo chính sách với độc giả của thư viện được tiến hành chặt chẽ. Chương trình tự động hợp lệ độc giả: kiểm tra hạn thẻ, số sách được mượn, vị trí của độc giả trong hàng đợi. Hợp lệ ấn phẩm: ấn phẩm đang được sử dụng hay đang ở trạng thái rỗi...

3. Phân hệ độc giả:

Phân hệ này giúp thư viện trong việc quản lý độc giả và tiến hành các hoạt động nghiệp vụ liên quan đến độc giả như cấp thẻ, in thẻ, gia hạn thẻ hay cắt hiệu lực của thẻ.

Phân hệ cũng cho phép thư viện phân loại độc giả và các chính sách riêng với từng nhóm độc giả.

Cung cấp các phép thống kê độc giả khác nhau theo tuổi tác, ngành nghề, thời gian cấp thẻ và hết hạn thẻ.

Phân hệ tra cứu:

Là một cầu nối giúp độc giả và thư viện giao tiếp với nhau tiện lợi hiệu quả. Phân hệ này được tích hợp trên mạng Intranet/Internet để tạo ra một môi trường phục vụ độc giả tra cứu và sử dụng thông tin tư liệu do thư viện cung cấp vào mọi lúc và tại mọi nơi. Thư viện cũng có thể điều tra và thống kê được những lĩnh vực mà độc giả quan tâm cũng như nhận được các ý kiến phản hồi của độc giả.
Phân hệ tra cứu còn mang tới cho bạn đọc không chỉ những ấn phẩm ở dạng truyền thống (tài liệu, sách báo) mà còn cả những ấn phẩm ở dạng điện tử (các văn bản, sách điện tử, phim, hình ảnh, bản đồ, âm thanh...). Với cơ chế tìm kiếm toàn văn bằng tiếng Việt không phân biệt chữ hoa hay chữ thường với nhiều giao diện tra cứu theo các tiêu chí tra cứu khác nhau, độc giả có thể tìm kiếm tư liệu một cách nhanh chóng, dễ dàng. Độc giả có thể sử dụng toán tử logic để tổ hợp các điều kiện tìm kiếm đó hay tìm kiếm bằng cách sử dụng các ký tự đại diện (willcard character) cho phép có thể đưa ra các yêu cầu tìm kiếm mở, tìm kiếm gần đúng.

4. Phân hệ quản trị hệ thống:

Phân hệ này được quản lý bởi nhóm người quản trị có quyền sử dụng cao nhất trong hệ thống. Chức năng của phân hệ này là bảo vệ an ninh cho hệ thống, tránh sự truy nhập bất hợp pháp từ bên ngoài vào hệ thống. Cho phép cấp tài khoản truy cập vào hệ thống hay hủy bỏ các tài khoản đang sử dụng.

5. Phân hệ thống kê:

- Thống kê và vẽ đồ thị về hoạt động bổ sung (số đầu sách, bản sách tăng giảm) định kỳ hàng năm, hàng tháng và hàng ngày hoặc cho bất kỳ một khoảng thời gian được người dùng giới hạn. Ngoài ra còn có thê thống kê lượng lưu thông của tư liệu trong quá trình mượn trả của độc giả.

- Người dùng có thể tiến hành các thống kê khác nhau liên quan đến cộng đồng độc giả như vẽ đồ thị phân loại độc giả theo nhóm tuổi, ngày cấp thẻ, ngày hết hạn thẻ, theo nhóm độc giả...

LĨNH VỰC ÁP DỤNG :

eLib là phần mềm được thiết kế tổng thể cho phép tất cả các đơn vị thuộc các nghành thư viện sử dụng hiệu quả. eLib được xây dựng theo hướng mở, dễ dàng nâng cấp, mở rộng trong tương lai

Ứng dụng CNTT vào thư viện (Wireless)

Ứng dụng CNTT vào thư viện (Wireless)
P. Thư viện - BV Từ Dũ

T ngày 27/08/2009, phòng Thư vin Bnh vin T Dũ di v lu 1, khu C (phòng BS.Lập và phòng NCKH cũ) và đã triển khai thư vin đin tử:

- Sử dụng mng internet không dây (h thng Wireless) với 2 máy chính.

- Kết nối với hơn 50 địa chỉ website quốc tế để download và lấy toàn văn các bài viết....2009 (sau khi chọn xong, các bạn tự gửi bài qua email cá nhân của mình, sau đó về nhà nghiên cứu hoặc in ra…)

- Phòng cũng trang bị máy lạnh và thảm để chống ồn.

- Các bạn có thể mang máy tính xách tay vào thư viện để truy cập mạng.

- Đối với sách y học Việt nam tại thư viện: đã lên danh sách từng bài viết trong sách, tạp chí, hội thảo... theo chuyên ngành, tác giả, số trang, năm xuất bản, mã số quyển sách ...,Vì vậy, bạn chỉ cần truy cập trên máy tính của thư viện để tìm tựa bài theo nhu cầu. Sau đó, bạn chỉ ghi vào phiếu yêu cầu mã số quyển sách, số trang của bài và nhờ nhân viên thư viện tìm giúp, bạn sẽ được đáp ứng ngay trong vòng 5 - 15 phút.

- Đối với sách y học ngoại văn: thư viện cũng sẽ cố gắng lên danh mục như trên.

- Và tương lai sẽ là: sẽ scanner các bài viết, nhập vào máy ... các bạn sẽ đọc ngay trên máy mà không cần tìm sách.

- Sẽ đưa tất cả danh mục bài viết lên website của bệnh viện () hoặc để phục vụ các bạn ở xa có thể truy cập và yêu cầu gửi qua bưu điện, email (có lệ phí gồm photocopy, phí gửi qua bưu điện ..)

- Hiện nay, các bạn ở xa có thể truy cập các website y học quốc tế trực tiếp trên website Bệnh viện Từ Dũ, mục Giới thiệu/Thư viện điện tử/ Tiêu chuẩn hóa thông tin thư viện y học/ Chi tiết….các bạn cứ nhấp chuột 2 lần vào các địa chỉ web mà bạn chọn...tự động trang web sẽ mở ra...Vì vậy, các bạn không cần phải ghi chép địa chỉ ấy rồi đánh lại đâu, cứ nhấp chuột vào đó là xong ngay thôi, các bạn sẽ lấy được toàn văn của nhiều bài viết lắm đó.

Chúc các bạn may mắn và thành công.