Từ lâu, các thư viện Việt Nam đã quen với 2 hình thức tổ chức kho: Kho đóng (chỉ cán bộ thư viện mới vào được) và kho mở (tạo điều kiện cho người đọc vào kho, tiếp cận, lựa chọn sách tại giá). Đa phần các thư viện miền Bắc chỉ tổ chức kho mở cho báo, tạp chí mới (3-5 năm cuối); cho sách mới (dưới hình thức phòng đọc/triển lãm sách mới hàng tuần hay nửa tháng), và cho tài liệu tra cứu (sách kinh điển, từ điển, bách khoa thư, cẩm nang, sổ tay, bảng tính, danh bạ, thư mục, tạp chí tóm tắt,...). Trong khi đó, nhiều thư viện ở miền Nam, nhất là các thư viện có từ trước ngày giải phóng, và các thư viện của các tổ chức nước ngoài như FAO, UNDP,...đã tổ chức kho mở hầu như cho toàn bộ kho sách. Mới đây, việc tổ chức kho mở trên qui mô rộng hơn đã được phát triển ở nhiều thư viện và cơ quan thông tin trong cả nước: ở Trung tâm Thông tin- Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội, các đại học thuộc Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Thư viện KHKTTU thuộc Trung tâm Thông tin-Tư liệu KHCNQG, và nhiều thư viện khác.
Trong kho đóng, việc phân kho, sắp xếp sách trước hết dựa theo ngôn ngữ, sau đó theo khổ cỡ (chiều cao gáy sách) và cuối cùng là theo thứ tự sách nhập về thư viện. Tổ chức theo hình thức kho đóng có ưu điểm là quản lý và bảo vệ sách (chống thất thoát) được dễ dàng. Trật tự sách trong kho không bị xáo trộn. Tiết kiệm được diện tích giá kệ (do sách cùng cỡ xếp cạnh nhau thành từng đợt; không phải dự trữ chỗ cho các sách cùng chủ đề sẽ tiếp tục bổ sung vào kho). Tuy nhiên, ít thuận tiện cho người đọc, vì họ phải viết phiếu yêu cầu (dựa trên những thông tin hết sức vắn gọn trong tờ phiếu mục lục hay biểu ghi thư mục), chờ đợi để nhân viên vào kho lấy sách, mà không có điều kiện xem lướt qua nội dung sách để chọn lọc kỹ càng trước khi quyết định mượn. Hiện nay, ở các nước Âu Mỹ, người ta vẫn duy trì hình thức kho đóng để bảo quản các sách quí hiếm và có tần số sử dụng thấp.
Ngược lại, hình thức tổ chức kho mở có ưu điểm tạo điều kiện thuận lợi cho bạn đọc chọn lựa sách, đọc ngay tại chỗ, không mất thời gian viết phiếu yêu cầu và chờ đợi để có sách, rất thích hợp với phương châm tổ chức và hoạt động của thư viện ngày nay là hướng về người sử dụng (user oriented) nhưng lại có những nhược điểm mà vốn là những ưu điểm của kho đóng.Trong kho mở, việc sắp xếp sách dựa theo nội dung chủ đề căn cứ vào ký hiệu xếp giá (call number), được tạo ra bằng cách kết hợp ký hiệu phân loại (rút ra từ Khung phân loại mà thư viện đang sử dụng) kết hợp với ký hiệu tác giả hay còn gọi là số Cutter.
Theo định nghĩa trong Đại từ điển của nhà Random (Random House Unabridged Dictionary) xuất bản năm 1993, số Cutter là một mã kết hợp các số thập phân với các chữ cái lấy từ họ tác giả, được sử dụng trong một hệ thống xếp theo chữ cái.
Số Cutter (hay còn gọi là số sách: book number) mang tên nhà thư viện học lỗi lạc người Mỹ Charles Ammi Cutter, một trong những người sáng lập ra Hội thư viện Mỹ (ALA). Ngoài việc tạo ra các bảng ký hiệu tác giả, ông còn biên soạn Khung phân loại mở rộng Cutter (Cutter Expansive Classification) có ảnh hưởng lớn đối với Khung phân loại của Thư viện Quốc hội Mỹ (LCC) hiện nay. Charles Ammi Cutter biên soạn Bảng Cutter 2 chữ số (Cutter Two-figure Author Table) vào những năm cuối của thế kỷ 19 với mục đích tạo ra một phương pháp dễ sử dụng để sắp xếp sách theo tác giả trong phạm vi một mục (lớp) phân loại.
Trong những năm 60 của thế kỷ 20, Bà Kate E. Sanborn đã biên soạn lại Bảng Cutter 2 chữ số và phát triển thành Bảng Cutter 3 chữ số (gọi là Cutter –Sanborn Three-figure Author Table); được ông P.K.Swanson (Thư viện Forbes, Northampton, Massachusetts) và bà E.M.Swift (biên tập viên Nhà xuất bản H.R.Huntting Company) biên tập, hiệu đính và chỉnh lý. Bảng in bằng phông chữ mới. Các dãy số được sắp xếp liên tục theo từng chữ cái riêng biệt, mỗi cột chữ cái tương ứng với một cột số, thay vì hai cột chữ cái họ tên tác giả sử dụng chung một cột số như cách trình bày trong bảng Cutter 2 chữ số. Cũng trong thời gian này, do không tán đồng với cách phát triển của K.E. Sanborn (không bám sát vào cấu trúc của Bảng Cutter 2 chữ số), bản thân tác giả Cutter đã chi tiết hoá Bảng Cutter 2 chữ số thành Bảng Cutter 3 chữ số (Cutter Three-figure Author Table). Đặc điểm của bảng này là trong một số trường hợp, số Cutter có thể bắt đầu bằng 2 chữ cái (trường hợp tên họ tác giả bắt đầu bằng 2 nguyên âm, hoặc phụ âm kép Sc, hoặc thậm chí bắt đầu bằng 3 chữ cái trong trường hợp tên họ tác giả bắt đầu bằng Sch). Sau này, Thư viện Quốc hội Mỹ cũng tạo ra một phương pháp định ký hiệu tác giả riêng, dựa trên nguyên tắc ghép chữ cái đầu tên họ tác giả lần lượt với các số (từ 2 đến 9) theo qui định, tương ứng với từng chữ cái kế tiếp trong tên họ (thay vì tra trực tiếp vào một bảng có sẵn như các bảng Cutter 2 và 3 chữ số).
ở Liên Xô cũ và Nga hiện nay, các loại hình thư viện đều sử dụng bảng ký hiệu tác giả 2 chữ số, hoặc 3 chữ số, do L.B. Khavkina biên soạn dựa trên nguyên tắc Cutter và Cung sách toàn Liên bang xuất bản để sắp xếp nhanh chóng, thống nhất và chính xác sách trong kho mở. Thư viện khoa học kỹ thuật TU đã sử dụng bảng này (lần xuất bản thứ 5 năm 1961 có kèm theo Bảng 2 chữ số dùng cho các ngôn ngữ khác) để định ký hiệu tác giả và sắp xếp tài liệu bằng tiếng Nga và tiếng nước ngoài. Hiện nay, căn cứ vào tình hình sách latinh nhập vào nhiều hơn sách Nga, Thư viện đã sử dụng bảng Cutter-Sanborn thay cho bảng Khavkina.
Kể từ lần in đầu tiên vào những năm 90 của thế kỷ 19, các bảng Cutter đã được hàng ngàn thư viện trên thế giới thông qua và sử dụng. Trong số các phương pháp định ký hiệu tác giả, phương pháp sử dụng Bảng Cutter-Sanborn được phổ biến hơn cả, vì nó xuất hiện đầu tiên trong số các bảng 3 chữ số và tính chất sử dụng tương đối đơn giản của nó (Số Cutter bao giờ cũng chỉ sử dụng 1 chữ cái đầu; đa số các vần chữ cái là một hoặc hai âm tiết,... ) . Tuy nhiên, những thư viện mua phiếu in hoặc nhập biểu ghi của Thư viện Quốc hội Mỹ có xu hướng sử dụng phương pháp định ký hiệu tác giả của Thư viện này để tạo ký hiệu xếp giá kết hợp với ký hiệu phân loại LCC (Library of Congress Classification). Bảng Cutter của Thư viện Quốc hội Mỹ, đúng ra là một tập hợp các chỉ dẫn cách tạo lập một số Cutter theo kiểu của Thư viện này. Sau đây, là Cấu trúc các bảng tác giả đã giới thiệu ở trên [3,7].
Tên riêng "Cutter" hiện nay đã được sử dụng như một loại từ chung: danh từ kép "Cutter number" với nghĩa là "ký hiệu tác giả", hoặc như một động từ, "to cutter", hay một danh động từ, "cuttering", có nghĩa là định ký hiệu tác giả (theo nguyên tắc Cutter).
Số Cutter được tạo ra bằng cách kết hợp một hoặc nhiều chữ cái đầu tiên của họ tác giả với các số lấy từ Bảng Cutter được thiết kế sao cho có thể sắp xếp họ tên người theo trật tự vần chữ cái:
Thí dụ: R648 (Roberts) R649 (Robertson) R658 (Robinson)
(Theo bảng Cutter-Sanborn)
Số Cutter giúp tạo ra một hình thức họ tên tác giả ngắn gọn hơn, tạo điều kiện sắp xếp sách trên giá trong một mục phân loại hay chủ đề theo họ tên tác giả dễ dàng, chính xác. Kết hợp với ký hiệu phân loại, số Cutter giúp hình thành ký hiệu xếp giá (call number) của một cuốn sách; từ đó có thể xác định vị trí của sách trong kho mở. Nhờ ký hiệu ngắn gọn, tạo điều kiện làm các thủ tục xuất sách cho mượn và trả lại sách về đúng vị trí trên giá nhanh chóng.
Độ dài của số Cutter thay đổi tuỳ theo từng hoàn cảnh. Với một kho sách nhỏ, số sách trong mỗi mục phân loại ít, thì có khi số Cutter chỉ cần một chữ cái kết hợp với 1 số thập phân là đủ để phân biệt các cuốn sách của các tác giả khác nhau. Nhưng nếu thư viện lớn, sách nhập về nhiều, thì phải chi tiết hoá số Cutter tới 2, 3 số thập phân. Mặc dầu, thay đổi số Cutter là điều khó tránh, nhưng phải hết sức hạn chế vì việc này đòi hỏi phải cập nhật, sửa đổi biểu ghi thư mục và thay thế nhãn gáy sách, mà số Cutter là một yếu tố quan trọng ghi trên đó. Do đó lý tưởng là có một số Cutter đơn trị, nhưng trên thực tế, đối với một hệ thống cục bộ, người ta vẫn có thể chấp nhận hiện tượng có ký hiệu xếp giá trùng lặp chút ít và thứ tự không chính xác ở hai, ba cuốn sách liền kề nhau. Điều này không được coi là nghiêm trọng vì vẫn có thể tìm được cuốn sách trên giá [6 ].
Việc xây dựng bảng và định số Cutter được tiến hành theo những nguyên tắc chính sau đây:
Kết hợp giữa chữ cái và số của họ tên tác giả;
Xây dựng và mở rộng theo hệ số thập phân 1-9, 11-99, 111-999;
Bám sát qui tắc biên mục: Căn cứ vào tiêu đề chính (main entry) của mô tả thư mục. Nghĩa là sách có 3 tác giả trở xuống, định số Cutter theo họ tên tác giả thứ nhất. Sách có từ 4 tác giả trở lên và sách không nêu tên tác giả (tác phẩm khuyết danh), định số Cutter theo từ đầu tiên của nhan đề;
Tránh dùng số 0 vì dễ lầm với chữ cái O đứng đầu số Cutter và tránh dùng chữ l trong dấu hiệu tác phẩm vì dễ lầm với số 1 trong số Cutter;
Chi tiết hoá số Cutter đến mức có thể cá biệt hoá từng cuốn sách;
Đối với sách dịch, lập số Cutter theo nguyên tác (nếu có dữ liệu). Sau đó, bổ sung một chữ cái viết hoa theo ngôn ngữ bản dịch. Thí dụ V (bản dịch tiếng Việt), E (bản dịch tiếng Anh), F (bản dịch tiếng Pháp), R (bản dịch tiếng Nga);
- Tuỳ theo quá trình sách nhập về, có thể hiệu chỉnh số Cutter để đảm bảo tiêu đề thống nhất và cá biệt hoá ký hiệu xếp giá của từng cuốn sách.
Phát triển số Cutter cho sách Việt
Tiếng Việt có một bảng chữ cái riêng (mặc dầu về cơ bản dựa trên vần chữ cái latinh) với hệ thống âm luật và dấu biến thanh điệu điển hình, cho nên một số thư viện Việt Nam trong hàng chục năm qua đã có nỗ lực phát triển các bảng Cutter của nước ngoài hoặc biên soạn mới các bảng Cutter dùng riêng cho sách Việt.
Thư viện Quốc gia Sài gòn (nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh) đã in lại, dịch lời hướng dẫn sử dụng, phát triển và cải biên bảng Cutter-Sanborn trong các vần N, Q và X (thêm trang 71). Sau này, Thư viện Khoa học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh trên cơ sở áp dụng bảng này đã viết lại lời hướng dẫn, giới thiệu. Đặc điểm của việc áp dụng bảng tác giả ở Thành phố Hồ Chí Minh là sử dụng 1 bảng chung cho các ngôn ngữ khác nhau (tiếng Nga phải latinh hoá trước khi áp dụng), tạo điều kiện xếp các tài liệu Việt trong từng mục phân loại của kho mở theo trật tự thuận họ - tên tác giả (cách sắp xếp đã được đa số các thư viện lớn ở Việt Nam chấp thuận); số Cutter vừa được lập cho họ, vừa được lập cho tên riêng (2 số Cutter), do đó tuyệt đối tránh được hiện tượng trùng lặp số Cutter định cho họ tên các tác giả khác nhau. Tuy nhiên, việc Việt hoá họ tên tác giả trong bảng Cutter-Sanborn, mới chỉ làm được ở 3 vần N, Q, X, còn những vần khác vẫn phải tra chung và dùng theo họ tên người nước ngoài.
Năm 1979, Thư viện Quốc gia Việt Nam đã biên soạn và xuất bản 3 bảng ký hiệu tác giả (cho sách báo chữ Việt, chữ Nga và chữ Latinh) kèm theo Bảng phân loại dùng để sắp xếp sách trên giá kho phụ của các thư viện đại chúng.
Cấu tạo Bảng ký hiệu tác giả dùng cho sách báo chữ Việt gồm 2 phần: Phần các nguyên âm và phụ âm (đơn và kép xếp theo thứ tự chữ cái) và Phần các vần (tương ứng với mỗi vần là một số gồm 3 chữ số có sử dụng cả số 0). Ký hiệu tác giả được tạo lập bằng cách : trước hết, ghép phụ âm với vần (trường hợp tên tác giả bắt đầu bằng phụ âm), hoặc bằng cách lấy ngay vần sẵn có trong Bảng (trường hợp tên tác giả bắt đầu bằng nguyên âm) để tìm số thích hợp; sau đó ghép số này với chữ cái đầu tên tác giả (trường hợp tên tác giả bắt đầu bằng phụ âm kép, thì lấy 2 chữ cái đầu).
Bảng này qui định việc tạo ký hiệu tác giả theo tên riêng, sau đó thêm chữ cái đầu của họ vào cuối trong ngoặc đơn, thí dụ: Số Cutter của Nguyễn Du sẽ là D500(N), tức là theo truyền thống lập tiêu đề mô tả chính và sắp xếp họ tên người Việt Nam theo trật tự đảo: tên trước, họ sau: DU (Nguyễn). Một đặc điểm nữa của Bảng này là tạo các vần phụ âm kép riêng (Ch, Gi, Gh, Kh, Ng, Nh, Ph, Th, Tr), tức là không theo cách sắp xếp của các từ điển Việt Nam hiện đại (Ch nằm trong vần C, Th nằm trong vần T,...) [ 1 ].
Năm 2001, trong quá trình chuẩn bị triển khai kho sách mở hiện đại, Trung tâm Thông tin Tư liệu KHCNQG đã biên soạn và áp dụng Bảng ký hiệu tác giả 3 chữ số dùng cho sách Việt. Bảng này xây dựng trên nguyên tắc Cutter (kết hợp giữa chữ cái và số thập phân, không dùng số 0), tạo điều kiện sắp xếp họ tên tác giả theo trật tự thuận (kết hợp giữa chữ cái đầu của họ với số Cutter của tên riêng), và theo cách sắp xếp thứ tự chữ cái của các từ điển hiện đại (không tách riêng các vần bắt đầu bằng phụ âm kép).
Bảng ký hiệu tác giả do Trung Tâm biên soạn gồm có hai phần: Phần nguyên âm ( A, Ă, Â, E, Ê, I, O, Ô, Ơ, U, Ư, Y) và phần phụ âm kép (Ch, Gh, Kh, Ng, Nh, Ph, Th, Tr)
- Phần nguyên âm dùng để tra trực tiếp tên các tác giả, bút danh, nhan đề bắt đầu bằng nguyên âm. Thí dụ : Anh (A118), Yêm (Y438).
Phần này cũng dùng để tra ghép tên tác giả bắt đầu bằng phụ âm đơn. Thí dụ: Bửu, Minh, Tuấn... Trong trường hợp này, trước hết tra "phần của tên" bắt đầu bằng nguyên âm (ưu, inh, uấn). Sau đó, ghép các số tương ứng tìm được với phụ âm đầu tên (B, M, T).
- Phần phụ âm kép dùng để tra trực tiếp tên các tác giả, bút danh, nhan đề bắt đầu bằng phụ âm kép (Phụ âm kép chỉ dùng để tra; khi tạo số Cutter, chỉ lấy phụ âm đầu mà thôi)
Thí dụ: Tác giả Lê văn Thiêm sẽ có số Cutter tương ứng với tên riêng trong bảng là : T189, cộng thêm chữ cái đầu của họ sẽ là LT189. [ 2 ]
Qui trình định số cutter (Theo bảng Cutter-Sanborn)
Tra bảng Cutter, xác định nhóm chữ cái phù hợp với họ hoặc tên tác giả cá nhân hoặc tên tác giả tập thể là tiêu đề mô tả chính của sách. Lấy chữ cái đầu tiên kết hợp với các số ả rập liền kề ở bên phải để tạo thành số Cutter. Tra triệt để đến vần tận cùng (không nửa vời) để có được số Cutter thích hợp nhất, trùng khớp nhất.
Thí dụ :
Dewet 518
Dewey 519
Dewi 521
Căn cứ vào dẫy số trên, số Cutter của tác giả Melvil Dewey là D519. Không lấy số nửa vời D515 (Dew)
Nếu trong Bảng, không có 1 số nào trùng khớp hoàn toàn với họ tên tác giả cần số hoá theo Cutter, thì sử dụng số đầu tiên (số bên trên) trong các số gần gũi nhất đối với tên tác giả đó.
Thí dụ D685 lấy làm số Cutter cho tác giả J. Donne, dựa trên 2 số gần gũi trong Bảng là:
Donn 685
Donner 686
Số Cutter được sử dụng như các số thập phân. Do đó, khi cần thiết, bất kỳ số nào cũng có thể được mở rộng bằng cách thêm các chữ số vào cuối. Chẳng hạn, nếu S643 đã được phân định cho tác giả Benjamin Smith và S644 đã được phân định cho tác giả Charles Smith thì đối với tác giả Brian Smith, có thể dùng số S6435. Trật tự sắp xếp sách theo các tác giả này sẽ là:
S643, S6435, S644
Số 5 thường được chọn làm chữ số bổ sung nhằm mục đích để dành chỗ về hai phía (trên và dưới) cho những trường hợp cần xen vào Bảng trong tương lai.
Khi 2 cuốn sách của hai tác giả khác nhau được phân loại trong cùng một mục, lại có chung số Cutter trong Bảng, thì tạo 1 số khác cho tác giả thứ 2, bằng cách bổ sung một chữ số vào cuối, thí dụ M282 cho Michael Mann và M2825 cho Thomas Mann.
Khi 2 hoặc nhiều tác giả cùng họ (khác tên), viết về cùng một chủ đề, thì những tác giả ấy được phân định những số Cutter khác nhau. Thí dụ, D548 cho David Dickenson và D5485 cho Robert Dickenson.
Khi cùng 1 tác giả viết nhiều tác phẩm về cùng một chủ đề, thì sử dụng thêm ký hiệu tác phẩm, ký hiệu lần xuất bản hoặc năm xuất bản và số (thứ tự) tập và số (thứ tự) bản để tạo thành ký hiệu xếp giá đơn nhất cho từng tác phẩm.
Dấu hiệu tác phẩm (workmark hoặc workletter)
Dấu hiệu tác phẩm được bổ sung vào số Cutter để phân biệt những cuốn sách khác nhau về cùng một chủ đề và do cùng một người viết. Dấu hiệu tác phẩm thường ghi tiếp ngay sau số Cutter và gồm 1 hay nhiều chữ cái đầu tiên (viết thường) của từ đầu tiên (không kể mạo từ, đối với sách Âu Mỹ) trong nhan đề tác phẩm.
Thí dụ:
D548i Introduction to Algebra by Dickenson
D548p Principles of Algebra by Dickenson
H895m Les misérables par Victo Hugo
Để phân biệt các tác phẩm viết về một tác giả với các tác phẩm do tác giả ấy viết, sử dụng chữ z (viết thường) xen giữa số Cutter và dấu hiệu tác phẩm. Trong trường hợp này, dấu hiệu tác phẩm qui ước lấy theo tên người viết tiểu sử. Làm như vậy, sách về một tác giả (nhân vật chí) sẽ xếp sau các tác phẩm do tác giả ấy viết.
Thí dụ:
T181Lv Vàng và máu / Thế Lữ
T181Lzh Thế Lữ-cuộc đời trong nghệ thuật/ Hoài Việt biên soạn
(T181L là Ký hiệu tác giả định cho Thế Lữ (Bút danh), theo Qui tắc của Trung tâm TTTLKHCNQG)
Để xếp các toàn tập hay tuyển tập của một tác giả lên trước các tác phẩm riêng lẻ của tác giả đó, người ta không dùng dấu hiệu tác phẩm cho các toàn tập hay tuyển tập.
T181L Tuyển tập / Thế Lữ
T181Lm Mấy vần thơ / Thế Lữ
T181Lt Trại Bồ Tùng Linh / Thế Lữ
Ký hiệu lần xuất bản
Trong thực tế, có nhiều tác phẩm được xuất bản nhiều lần, có chung ký hiệu phân loại và số Cutter. Để tạo lập một ký hiệu xếp giá đơn nhất cho mỗi lần xuất bản, người ta thêm một Ký hiệu lần xuất bản dưới dạng số vào sau ký hiệu tác phẩm.
Thí dụ: Số Cutter của các lần xuất bản lần thứ 2, 3, 4, 5 của tác phẩm "Dế mèn phiêu lưu ký" của Tô Hoài thể hiện như sau:
T311Hd2 T311Hd3 T311Hd4 T311Hd5
Số tập và số bản
Khi một tác phẩm xuất bản thành nhiều tập (Sách nhiều tập), hoặc khi Thư viện có nhiều bản của một đầu tên sách, ta phải bổ sung số (thứ tự) tập và số (thứ tự) bản vào ký hiệu xếp giá để tạo một địa chỉ duy nhất cho sách trong kho mở. Số thứ tự tập cách số bản một dấu vạch xiên (/).
Kết luận
Định số Cutter là một công đoạn xử lý tài liệu, tuy khá đơn giản, nhưng cũng mất công sức, thời gian và dễ mắc sai sót. Đối với quá trình biên mục từng bản sách cụ thể, số Cutter là yếu tố duy nhất trong biểu ghi thư mục mà thường xuyên nên hiệu chỉnh để đảm bảo ký hiệu xếp giá của sách là đơn trị và ăn khớp với mục lục vị trí của thư viện. Do vậy đã có nhiều dự án phát triển các thuật toán để tự động tạo các số Cutter hoặc giúp người biên mục định các chỉ số đó. Người ta đã soạn thảo chương trình định chỉ số Cutter tự động, coi như một tiện ích kèm theo một chương trình quản trị thư viện tích hợp có bán trên thị trường.
Hiện nay, trên thế giới, ở hầu hết các thư viện lớn, chính qui, đặc biệt là các thư viện công cộng, các thư viện tổng hợp và đa ngành, người ta đều áp dụng chỉ số Cutter cho sách trong kho mở. Tuy nhiên, cũng có nhiều thư viện nhỏ, nhất là một số thư viện chuyên ngành khoa học kỹ thuật, không áp dụng các bảng Cutter, mà sau khi phân theo từng mục phân loại hay chủ đề, sách sẽ được xếp theo thứ tự nhập về thư viện (những sách mới sẽ tập trung vào cuối mục), với lý do là trong lĩnh vực này bạn đọc quan tâm đến những thông tin và tư liệu mới hơn là tìm sách trên giá theo họ tên tác giả.
Tài liệu tham khảo
Bảng kí hiệu tác giả: dùng cho sách báo chữ Việt / Thư viện Quốc gia. - Hà Nội, 1979. - 11tr.
Định ký hiệu tác giả cho sách trong kho mở: Tài liệu hướng dẫn / Trung tâm Thông tin Tư liệu KHCNQG . - Hà Nội, 2001. -11 tr.
Cataloging and classification: an introduction/ Lois Mai Chan. - N.Y.: McGraw-Hill, 1994. - 519p.
Cutter-Sanborn three-figure author table. - Swanson-Swift Revision. Chicopee, (Mass.) : H.R.Hunting Co .- 1969. – 71p.
Cutter three-figure author table. - Swanson-Swift Revision. – Chicopee, (Mass.) : H.R.Hunting Co .- 1969. – 61p.
Cuttering for the Library of Congress Classification / E.T. O’Neill. - URL: /OCLC/research/publications/review94.htm.
Introduction to cataloguing and classification/ B.S. Wynar . - 8 ed./ A.G. Taylor. Englewood: Libraries Unlmt.Inc.,1992. - XIII, 632p.
Understanding call numbers-QUT Library. - URL: http://wwwlib.qut.edu.au/services/usered/newsys/callnumbers.html.
Bài viết đã được đăng bởi Vietnamlib.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét