Thứ Tư, 2 tháng 6, 2010

Thư viện SKSS(WHO)

Ảnh hưởng của hội nghị và hội thảo đào tạo liên tục trên thực hành chuyên môn và kết cục sức khỏe.

Hội thảo tích cực nhiều khả năng hiệu quả hơn kiểu huấn luyện thuyết trình. Lối trình bày theo sách giáo khoa không làm thay đổi được thực hành. Hội thảo tích cực chủ yếu dựa trên sự trao đổi thông tin và kỹ năng điều phối của người hướng dẫn.

Bình luận RHL của Smith H, Brown H, Khanna J

1. TÓM TẮT CHỨNG CỨ

Những tài liệu liên quan
:: Tổng quan Cochrane
:: Những khía cạnh thực hành của RHL

Về tác giả
:: Smith H, Brown H, Khanna J

Mục tiêu của tổng quan nhằm trả lời cho câu hỏi: Những hội nghị và hội thảo đào tạo có cải thiện hiệu quả thực hành lâm sàng không? Để trả lời câu hỏi này, tổng quan đã phân tích 32 nghiên cứu (cả thử nghiệm ngẫu nhiên và nghiên cứu với thiết kế bán ngẫu nhiên bao gồm 2995 nhân viên y tế) để đánh giá kết cục của những hội nghị đào tạo so với nhóm chứng không can thiệp. Tất cả các nghiên cứu được các tác giả đánh giá, tuân theo tiêu chí được mô tả trong tổng quan, có chất lượng từ trung bình đến cao về phương diện tránh sai lệch. Chủ yếu, tổng quan này so sánh:

  • hội nghị đào tạo có hoặc không có tài liệu đào tạo so với không can thiệp/chăm sóc thông thường; và
  • hội nghị đào tạo có sử dụng những hoạt động tương tác so với những hội thảo dựa vào bài giảng.

Hội nghị đào tạo so với không can thiệp

Nhìn chung, 24 trong 32 nghiên cứu được đưa vào tổng quan ghi nhận có cải thiện đáng kể thực hành chuyên môn (về ít nhất là một kết cục quan trọng); và 3 trong 8 nghiên cứu ghi nhận có những cải thiện có ý nghĩa thống kê về tác động lên những kết cục của bệnh nhân trong nhóm nhân viên y tế được nhận can thiệp- đó là hội nghị đào tạo.

Hội thảo đào tạo chủ động so với hội thảo dựa trên bài giảng (theo hình thức sách giáo khoa)

So sánh này là một mục tiêu quan trọng của tổng quan, dù rằng đây không phải là câu hỏi nghiên cứu chính. Chỉ có một trong 32 nghiên cứu thực hiện so sánh trực tiếp, và không tìm thấy sự khác biệt giữa hai hình thức tiếp cận này. Tuy nhiên, khi các tác giả so sánh hai hình thức tiếp cận này qua các nghiên cứu, với 6 trong 10 so sánh, họ tìm được tác động tích cực có ý nghĩa thống kê ở mức độ trung bình hoặc khá cao của những hội thảo chủ động; trong số 4 nghiên cứu còn lại, họ tìm ra tác động tích cực ở mức độ thấp, với chỉ một kết quả đạt ý nghĩa thống kê. Trong một nhóm của 19 so sánh khác ghi nhận hình thức kết hợp cả tiếp cận chủ động với tiếp cận giảng dạy theo sách giáo khoa so với hình thức tiếp cận chỉ bao gồm giảng bài theo sách giáo khoa, 12 được ghi nhận có tác động tích cực ở mức độ trung bình đến khá cao (11 có ý nghĩa thống kê) và 7 có tác động tích cực ở mức độ thấp. Hội nghị với hình thức giảng dạy theo sách giáo khoa không ghi nhận có tác động đáng kể lên thực hành của nhân viên y tế.

Khi bàn luận các kết quả trên, nhóm tác giả thừa nhận rằng những kết quả này không rõ ràng và cần phải được đánh giá thận trọng. Họ nêu ra những điểm yếu chính của các nghiên cứu thu nhận như báo cáo thiếu sót về phương pháp nghiên cứu, không đủ thông tin về theo dõi nhân viên y tế và không thực hiện làm mù khi đánh giá kết cục. Họ cũng cho rằng sai lệch do xuất bản (tức là những nghiên cứu báo cáo kết quả dương tính thường có cơ hội xuất bản hơn) và đánh giá quá mức tác động tích cực của đào tạo liên tục có thể làm ảnh hưởng các kết quả. Trong khi xem nhẹ giá trị của những tác động tích cực chung của hội nghị và hội thảo trong cải thiện thực hành của nhân viên y tế, các tác giả tin rằng chủ đề so sánh hội thảo giảng dạy so với hội thảo chủ động có tầm quan trọng lớn hơn rất nhiều trong bối cảnh đào tạo y khoa liên tục. Niềm tin này giải thích tại sao tổng quan này, với mục tiêu nhằm trả lời một cách đơn giản xem liệu hội thảo đào tạo có làm cải thiện thực hành không, lại bị che lấp bởi những bàn luận quá dài, và đôi khi không phù hợp, về so sánh giữa hình thức hội thảo chủ động với hội thảo giảng dạy. Cuối cùng nhóm tác giả kết luận với chiều hướng ủng hộ hình thức đào tạo chủ động (dựa vào những lý thuyết về giáo dục và phân tích định tính), cho dù trong tổng quan này bằng chứng ủng hộ kết luận này khá yếu: ghi nhận rằng chỉ duy nhất một nghiên cứu có tiến hành so sánh này lại không tìm được những tác động tích cực nào, mặc dù những so sánh giữa các nghiên cứu ghi nhận có tác động "trung bình" hoặc "khá lớn" trong nhiều trường hợp.

Phương pháp sử dụng truy tìm tài liệu phù hợp với tiêu chuẩn của Cochrane và thích hợp. Nhóm tác giá cẩn thận áp dụng tiêu chuẩn chọn lựa và đánh giá chất lượng các nghiên cứu dựa vào từng thiết kế, trong lúc không có thông tin về đánh giá kết cục và mức độ hoàn tất của theo dõi và sau đó ước lượng độ tin cậy của những nghiên cứu phù hợp dựa vào mức độ tránh thiên lệch (cao, vừa, thấp). Hai nhà tổng quan độc lập thu nhận thông tin từ các nghiên cứu.

Phương pháp tiến hành của tổng quan quá chi tiết, phức tạp và nói chung khó theo dõi. Nhóm tác giả tiến hành nhiều phương thức phân tích để đánh giá mức độ dao động trong các kết quả nghiên cứu và chất lượng các nghiên cứu. Ví dụ, họ ước lượng một cách chủ quan những thực hành khác nhau đã được sử dụng để đo lường các kết cục trong các nghiên cứu dựa vào mức độ phức tạp. Tuy vậy, tổng quan không nêu rõ cách ước lượng này được sử dụng như thế nào để đánh giá kết quả.

2. Khả năng ứng dụng cho những cơ sở có nguồn lực hạn chế

2.1. Tầm quan trọng của vấn đề

Nhu cầu đào tạo liên tục y khoa trên phạm vi toàn cầu liên quan đến những bước tiến nhảy vọt trong chăm sóc sức khỏe. Do đó, câu hỏi đặt ra không phải là có cần đào tạo liên tục hay không, mà là hình thức đào tạo nào mang lại hiệu quả thay đổi thực hành như mong đợi—đây chính là mục tiêu của tổng quan này. Bằng chứng ghi nhận hội nghị và hội thảo đều có những tác động có lợi lên thực hành chuyên môn. Tuy vậy, những hình thức này tốn kém cả về thời gian và chi phí. Tại những nước đang phát triển, thậm chí nhiều tạp chí hoặc tài liệu cập nhật vẫn còn thiếu thốn, hội nghị và hội thảo có vẻ như quá xa xỉ đối với nhiều bác sĩ, và những công ty dược phẩm đã ghi nhận thực tế này. Đối với rất nhiều bác sĩ tại các nước đang phát triển, hội nghị và hội thảo do các hãng dược phẩm tại trợ và tổ chức là hình thức duy nhất họ có thể tham dự. Chắc chắn là những hội thảo này luôn có những nội dung quảng cáo rất mạnh (được củng cố bằng quà tặng hay nhiều hình thức khác) và điều này có thể gây bất lợi cho quá trình cổ vũ những kiến thức chuyên môn khách quan dựa trên chứng cứ.

2.2. Khả năng ứng dụng vào thực tế

Cần đánh giá chi phí-hiệu quả của việc áp dụng các hình thức hội nghị và hội thảo trong việc thay đổi thực hành chuyên môn tại những địa phương có thu nhập thấp và trung bình. Thiếu thốn nguồn lực tại nhiều nước có thu nhập thấp bao gồm thiếu nhân viên trầm trọng, đồng nghĩa với nhân viên gặp nhiều khó khăn khi tham gia những chương trình đào tạo liên tục. Thiếu nhân viên cũng có nghĩa là khối lượng công việc của nhân viên rất nhiều, tinh thần của nhân viên có thể thấp và bất kỳ can thiệp nào nhằm đến việc làm thay đổi thực hành lâm sàng cũng khó duy trì nếu thiếu những tác động liên tục từ bên ngoài (1). Đặc biệt những can thiệp được đưa vào các nước nghèo từ mô hình của các nước giàu thường chỉ có thể duy trì khi kinh phí hỗ trợ còn tồn tại. Những can thiệp như của Sáng kiến cho việc sinh đẻ tốt hơn (2), nhằm vượt qua điều này bằng cách tìm kiếm các nguồn tài trợ trong nước.

Thử thách dường như nằm trong việc xây dựng những hình thức thay thế có chi phí thấp sử dụng cho những cơ sở có nguồn lực hạn chế, bao gồm những tác động thành công của hình thức hội thảo chủ động được sử dụng tại những nước giàu và chưa nhận thức được những khó khăn về nguồn lực. Sáng kiến cho việc sinh đẻ tốt hơn (3), sử dụng một hội thảo tương tác với những phương tiện đào tạo có chi phí thấp để tác động đến những thực hành của nữ hộ sinh; chiến lược này, đã được thí điểm tại các bệnh viện tỉnh Gauteng, Nam Phi, nay đã được triển khai tại 4 trong 9 tỉnh của Nam Phi và sẽ được đánh giá để xác định tác động và khả năng duy trì.

2.3. Khả năng áp dụng của các kết quả của bài tổng quan Cochrane

Giới hạn của tổng quan này (và của những tổng quan hệ thống khác về những can thiệp nhằm thay đổi thực hành chuyên môn) là giá trị bên ngoài hay khả năng khái quát hóa kết quả. Điều này một phần do thiếu những nghiên cứu phù hợp từ những quốc gia có thu nhận thấp và trung bình (những nơi ưu tiên đánh giá hiệu quả của những can thiệp lâm sàng), hơn là thiên lệch do thu nhận. Trong số 32 nghiên cứu được thu nhận, 24 được tiến hành tại Nam Mỹ, 2 tại Anh Quốc, và 1 tại Úc, Brazil, Pháp, Indonesia, Sri Lanka và Zambia. Việc chỉ thu nhận được 4 nghiên cứu từ những quốc gia có thu nhập thấp và trung bình (khác) đã giới hạn khả năng khái quát hóa các kết quả của tổng quan tại những nơi này.

2.4. Khả năng tiến hành những can thiệp

Nhóm tổng quan kết luận rằng những người tổ chức hội nghị đào tạo liên tục cần phải tiến hành dưới hình thức chủ động hơn là hình thức bài giảng. Trong khi hình thức học tập tương tác chủ động và dựa theo vấn đề ngày càng được sử dụng nhiều hơn tại các hội thảo đào tạo tại những quốc gia giàu, hình thức giảng dạy theo sách giáo khoa vẫn còn được nhiều báo cáo viên lựa chọn. Hình thức tương tác chủ động đòi hỏi phương thức tiếp cận sáng tạo hơn về cả dạy và học, và nhiều kỹ năng khác nhau để quản lý nhóm học viên. Tại những quốc gia thu nhập thấp những kỹ năng thuyết trình này thường hạn chế, điều này ảnh hưởng đến chi phí của can thiệp khi cần mời những báo cáo viên từ bên ngoài.

Có thể tổ chức những hội nghị và hội thảo tại những bệnh viện giảng dạy tại các nước đang phát triển. Tuy nhiên những hội nghị này vẫn dựa phần lớn vào hình thức bài giảng; để tổ chức những hội thảo theo hình thức tương tác chủ động, cần rất nhiều kỹ năng về giao tiếp và trình bày, vốn thường thiếu tại những cơ sở này.

2.5. Nghiên cứu

Do tiềm năng có thể đưa đến những tác động ở mức độ trung bình đến mạnh lên thực hành chuyên môn tại các nước phát triển, cần thêm nhiều nghiên cứu tại những nước có thu nhập thấp và trung bình để xác định mức độ thích hợp và khả năng ứng dụng của hội thảo chủ động tại những cơ sở có nguồn lực hạn chế. Bên cạnh những kết cục quan trọng (như tác động lên thực hành chuyên môn và kết cục của bệnh nhân), những nghiên cứu sau này cần ghi nhận những đánh giá kinh tế, khả năng duy trì những kết cục quan trọng và nghiên cứu định tính nghiêm ngặt. Những nghiên cứu quan sát và định tính có thể giúp xác định hoàn cảnh để tiến hành những can thiệp, những qui trình và tương tác xã hội trong hoàn cảnh đó. Điều này giúp làm tăng hiểu biết về những yếu tố thành công quan trọng trong quá trình thay đổi thành vi và xác định những ảnh hưởng đặc biệt của hội thảo góp phần thay đổi thực hành chuyên môn (4).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét